Wapviet9x.us | Thế Giới Game miễn phí trên di động của bạn
HOMEĐọc TruyệnGames
Game Hót nhất 2014
Harry Potter và Bảo Bối Tử Thần trang 2
Trang [1]

như đại bang sải cánh trên nền cẩm thạch đen lạnh giá, mũi nó chỉ cách cái chân của giá đỡ bằng bạc của cái bồn tắm vài inch. Nó ngồi dậy. Khuôn mặt đờ đẫn, hốc hác của Malfoy dường như hiện ra trong mắt nó. Harry cảm thấy buôn nôn vì những điều nó nhìn thấy, vì cách mà Voldermotr đang sử dụng Draco. Có tiếng gõ mạnh cửa, Harry nhổm dậy khi Hermione vang lên.

“Harry, cậu có muốn bàn chải của cậu không? Mình có đây này.”

“Ừ, tốt, cám ơn.” Nó nói, cố giữ cho giọng nói được bình thường lúc nó đứng dậy mở cửa cho cô.

Chương 10: Câu Chuyện Của Kreacher.

Sáng hôm sau, Harry dậy sớm, người vẫn cuộn mình trong chiếc túi ngủ dưới sàn phòng khách. Nó có thể thấy một khoảng trời giữa những tấm rèm cửa nặng trĩu. Bầu trời mát mẻ, xanh màu mực – màu của bóng tối đang chuyển dần sang một buổi mình minh, và mọi thứ đều tĩnh lặng ngoại trừ tiếng thở dài, sâu của Hermione và Ron. Harry nhìn liếc qua những hình dạng tối thui của hai người bạn ở bên cạnh mình. Ron đã có một cử chỉ lịch thiệp và khăng khăng bắt Hermione ngủ trên ghế sofa, vì thế mà bóng của cô bé đang phủ lên người nó. Tay cô bé cong xuống sàn, những ngón tay của cô bé đặt rất gần những ngón tay của Ron. Harry tự hỏi mình liệu hai đứa có nắm tay nhau trong lúc ngủ hay không. Ý nghĩ đó làm cho nó cảm thấy cô đơn một cách lạ lùng.

Nó nhìn lên cái trần nhà u ám, những ngọn đèn phủ đầy mạng nhện. Mới chỉ gần hai mươi tư giờ trước đó, nó đã đứng dưới ánh nắng ở lối vào ngôi lều, chờ đợi để đuợc xuất hiện trong những vị khách đến dự lễ cưới. Vậy mà nó có cảm giác dài đằng đẵng như cả một đời người. Rồi chuyện gì sẽ xảy ra? Nó nằm trên sàn nhà và nghĩ về những cái Horcrux, cảm thấy nản lòng trước cái nhiệm vụ phức tạp mà cụ Dumbledore để lại cho nó…Cụ Dumbledore…

Nỗi buồn chiếm hữu nó kể từ sự ra đi của cụ Dumbledore giờ đã thay đổi. Lời buộc tội bà dì Muriel đã từng đay nghiến giờ có vẻ như đang ăn sâu vào đầu óc nó như một loại bệnh, đầu độc vào những ký ức về một vị pháp sư mà nó đã rất tôn sùng. Làm sao cụ Dumbledore có thể để những chuyện đó xảy ra? Có phải cụ cũng đã từng như Dudley, mãn nguyện ngắm nhìn những sự thờ ơ và quấy rối, miễn là chúng không ảnh hưởng gì tới cụ? Có phải cụ đã quay lưng lại với người em gái đã bị giam cầm và giấu đi?

Harry nghĩ về thung lũng Godric, về những ngôi mộ ở đó mà cụ Dumbledore chưa bao giờ đề cập tới; nó nghĩ về những thứ đồ vật kỳ bí cụ Dumbledore đã để lại mà không hề có một lời giải thích nào trong di chúc, và sự tức giận của nó như vỡ oà ra trong bóng tối. Tại sao cụ Dumbledore không nói với nó? Tại sao cụ không một lời giải thích? Rốt cuộc, cụ Dumbledore có thực sự quan tâm tới nó hay không? Hay Harry không hơn gì một thứ công cụ được đánh bóng và mài dũa, nhưng không đuợc tín nhiệm, và không bao giờ được tin tưởng?

Harry không thể chịu được cái việc cứ nằm đây mà không có ai làm bạn, ngoài những ý nghĩ đắng cay chua xót. Liều lĩnh muốn làm một điều gì đó, để tiêu khiển cho đỡ buồn, nó lục lọi cái balô, lấy cây đũa phép và rón rén ra khỏi phòng. Đến đầu cầu thang, nó lẩm nhẩm, “Lumos,” (Toả sáng) và bước chân lên cầu thang theo ánh sáng phát ra từ đầu cây đũa.

Ở đầu cầu thang thứ hai là phòng ngủ mà nó và Ron đã từng ngủ trong lần cuối cùng đến đây; nó liếc vào đó. Cửa tủ quần áo để mở và khăn trải giường đã bị xé toạc. Harry chợt nhớ đến cái chân của chân chằn tinh đã bị lập úp xuống ở dưới nhà. Ai đó đã lục lọi căn nhà sau khi Hội rời khỏi đây. Là Snape? Cũng có thể là Mundungus, kẻ đã chôm chỉa rất nhiều thứ từ căn nhà này cả lúc trước và sau khi chú Sirius qua đời? Harry nhìn một cách lơ đễnh đến tấm chân dung mà thỉnh thoảng cụ Phineas Nigellus Black – người cụ tổ của chú Sirius thỉnh thoảng ghé qua nhưng giờ nó đang trống trơn, không có gì ngoại trừ những vết bùn ở phía sau tấm màn. Cụ Phineas Nigellus rõ ràng là đang ngủ ở căn phòng hiệu trưởng trường Hogwarts.

Harry tiếp tục lên cầu thang cho đến khi nó đến đầu cao nhất chỉ có hai cánh cửa. Cánh cửa trước mặt nó treo một tấm biển mang tên SIRIUS. Trước đây, Harry chưa từng vào phòng của người cha đỡ đầu. Nó đẩy cửa vào, giơ cao cây đũa phép để ánh sáng toả rộng hết mức có thể. Căn phòng khá rộng rãi và có vẻ như đã từng rất đẹp. Có một cái giường lớn với những tấm ván đầu giường đuợc làm bằng gỗ, một cái cửa sổ cao bị che đi bởi những tấm màn cửa dài làm bằng nhung và một cái chùm đèn bị bao phủ bởi lớp bụi dày, trên đó là những cây nến vẫn rất sạch sẽ cắm ở đui đèn, sáp ong thì nhỏ giọt như bị phủ sương giá. Một lớp bụi mờ bao phủ những bức tranh trên tường và những tấm ván đầu giường; một cái mạng nhện chăng ngang giữa cái chụm đèn và cái tủ quần áo lớn làm bằng vỗ, và khi Harry tiến sâu hơn vào phòng, nó nghe thấy tiếng chạy sột soạt của những con chuột.

Hồi còn trẻ, chú Sirius đã dán lên tường nhiều áp phích và tranh ảnh đến nỗi bức tường xám bạc gần như không còn khoảng trống. Harry chỉ có thể cho rằng ba má của chú Sirius đã không thể gỡ bỏ bùa Dính Vĩnh Viễn ở trên tường, bởi vì chú Sirius chắc rằng ba má chú sẽ không thể chấp nhận sự trang trí của đứa con cả của họ. Chú Sirius có vẻ đã đi quá đà trong việc chọc giận ba má. Có rất nhiều biểu ngữ lớn của nhà Gryffindor, màu đỏ tươi và vàng như để nhấn mạnh sự khác biệt giữa chú và toàn bộ phần còn lại của gia đình đã vào nhà Slytherin. Cũng có rất nhiều ảnh về những chiếc mô tô của dân Muggle, và (Harry cũng phải ngưỡng mộ sự táo bạo của chú Sirius) rất nhiều tranh chụp những cô gái Muggle mặc áo tắm. Harry có thể nói họ là dân Muggle bởi vì họ đứng im trong khung hình, nụ cười như tan biến và đôi mắt đờ đẫn vô hồn trên hình. Nó hoàn toàn tương phản với tấm hình duy nhất của thế giới phù thuỷ trên tường, tấm hình chụp bốn học sinh trường Hogwarts đang đứng vai kề vai, cười với ống kính.

Với sự vui sướng tột độ, Harry nhận ra cha mình, mái tóc đen bù xù của ông rủ xuống lưng cũng giống như Harry, và ông cũng đeo kính. Cạnh ông là chú Sirius, khá đẹp trai, khuôn mặt có phần hơi kiêu ngạo, trông chú trẻ hơn và vui vẻ hơn lúc Harry thấy khi chú còn sống. Đứng bên phải chú là Pettigrew, một kẻ lùn xủn, tròn trĩnh và mắt mọng nước, xúc động với niềm vui khi hắn cũng được đứng trong cái băng nhóm đầy cá tính ấy, hắn như đang bày tỏ sự ngưỡng mộ những người thích nổi loạn như ba James và chú Sirius. Bên trái ba là thầy Lupin, vẫn ăn mặc rất xoàng xĩnh, nhưng thầy cũng có một sự vui thích ngạc nhiên khi thấy mình như vậy và khi thấy mình được có mặt trong tấm ảnh này…hay đó đơn giản chỉ vì Harry biết mọi thứ là thế khi nó nhìn vào bức ảnh? Nó cố gắng gỡ tấm ảnh ra khỏi tường; tấm ảnh bây giờ đã là của nó. Suy cho cùng, chú Sirius đã để lại cho nó mọi thứ cơ mà, nhưng tấm ảnh vẫn không hề nhúc nhích. Chú Sirius đã ngăn không cho ba má mình có bất kỳ một cơ hội nào để trang trí lại căn phòng của cậu con trai.

Harry nhìn quanh sàn nhà. Bầu trời bên ngoài giờ đây sáng rực rỡ. Một tia sáng chiếu vào soi sáng một ít giấy tờ, sách, và những đồ vật nhỏ nằm rải rác trên tấm thảm. Rõ ràng là phòng của chú Sirius cũng đã bị lục lọi, mặc dù phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả đồ vật ở trong đó bị cho là, vô giá trị. Một vài quyển sách thậm chí còn bị rũ mạnh đến nỗi cái bìa và những trang sách của nó văng ra, nằm bừa bãi trên sàn.

Harry cúi thấp xuống, nhặt lên vài mảnh giấy và kiểm tra chúng. Nó nhận ra một bản in cũ của cuốn Lịch sử Pháp thuật, tác giả Bathilda Bagshot, và một tờ giấy giống như giấy bảo hành mô tô. Tờ thứ ba được viết tay và bị vò nát. Nó vuốt lại tờ giấy.

Gửi Chân Nhồi Bông,

Cám ơn, rất cám ơn vì món quá dành cho Harry! Đó là thứ được thằng bé yêu thích nhất. Mới một tuổi mà thằng bé đã ngắm nghía rất kỹ cái chổi thần đồ chơi ấy, thằng bé có vẻ rất thoả mãn. Mình có kèm một bức ảnh để cậu xem. Cậu biết đấy, nó chỉ bay khỏi mặt đất chỉ khoảng hai feet thôi mà thằng bé suýt giết chết con mèo và còn làm vỡ một cái bình xấu khủng khiếp mà chị Petunia gửi cho mình hồi Giáng Sinh (Mình không phàn nàn gì hết). Dĩ nhiên là anh James cho rằng chuyện đó rất thú vị, anh bảo rằng mai sau nó sẽ trở thành một cầu thủ Quiddich tuyệt vời, nhưng giờ bọn mình phải cất hết những thứ đồ trang trí và không dám rời mắt khỏi thằng bé khi nó đang bay.

Bọn mình đã tổ chức một bữa tiệc trà mừng sinh nhật, chỉ có bọn mình và bà bạn già Bathilda, bà ấy rất quý bọn mình và rất có cảm tình với Harry. Bọn mình rất tiếc là cậu không thể đến, nhưng phải đặt Hội lên trên hết và Harry chưa đủ khôn lớn để biết hôm ấy là sinh nhật nó!

Anh James có vẻ khá nản chí khi bị cầm chân ở đây, anh ấy cố không thể hiện ra nhưng mình biết – cụ Dumbledore vẫn giữ tấm áo khoác Tàng hình, vì thế, không thể có cuộc dạo chơi nho nhỏ nào hết. Nếu cậu có thể đến thăm, anh ấy chắc hẳn sẽ phấn khởi hơn. Cuối tuần trước Đuôi Trùn đã đến đây. Mình thấy cậu ấy có vẻ suy sụp, nhưng có lẽ cũng phải thôi sau những gì xảy ra với gia đình McKinnons; mình đã khóc hết cả tối khi nghe thấy tin đó.

Bà Bathilda gần như ngày nào cũng ghé qua đây, bà ấy là một bà già rất thú vị với những câu chuyện đáng ngạc nhiên về cụ Dumbledore. Mình không hiểu cụ có hài lòng không nếu biết điều đó! Mình không biết nên tin đến đâu, bởi thực sự thật đáng kinh ngạc rằng cụ Dumbledore…

Tứ chi của Harry như tê liệt. Nó vẫn đứng đó, vẫn giữ tờ giấy trong những ngón tay như mất hết cảm giác, trong khi bên trong cổ họng nó, có sự dâng trào mãnh liệt song song của hai cảm giác: vui sướng và đau khổ. Đi lảo đảo về phía chiếc giường, nó ngồi xuống.

Nó đọc lại, nhưng không thể tìm ra thêm bất kỳ ý nghĩa gì so với lần đọc đầu tiên, và nó chuyển sang việc nhìn vào những chữ viết tay. Má viết chữ “g” giống hệt nó: Nó tìm kiếm từng chữ một, và cảm giác như những bàn tay bè bạn đang vẫy vẫy từ đằng sau tấm màn. Lá thư này thực sự là một kho báu đáng giá, chứng tỏ rằng má Lily Potter đã từng sống, thực sự sống, bàn tay của má đã từng di chuyển trên tấm giấy da này, chấm mực để viết những con chữ, những từ ngữ, về con trai của má, Harry.

Gạt nước mắt một cách không kiên nhẫn, nó đọc lại lá thư, lần này tập trung vào ý nghĩa. Cảm giác giống như đang nghe một giọng nói nửa lạ nửa quen.

Họ đã từng có một con mèo, có lẽ nó đã chết, giống như ba má nó, ở thung lũng Godric…hoặc đã bỏ đi khi không còn ai chăm sóc…Chú Sirius đã mua tặng nó cái chổi đầu tiên…Ba má nó biết bà Bathilda Bagshot; liệu có phải cụ Dumbledore đã giới thiệu không? Cụ Dumbledore vẫn giữ tấm áo khoác tàng hình…Có điều gì đó kỳ lạ ở đây…

Harry dừng lại, suy nghĩ về những từ ngữ của má nó. Tại sao cụ Dumbledore lại giữ tấm Áo khoác Tàng Hình của ba James? Harry chợt nhớ về những gì thầy Hiệu trưởng đã nói với nó hàng năm trước, “Ta không cần đến một chiếc áo khoác để trở nên tàng hình!” Có thể thành viên không giỏi lắm của Hội cần sự trợ giúp, và cụ Dumbledore làm nhiệm vụ của một người trung chuyển? Harry tiếp tục…

Đuôi Trùn đã ở đây…Pettigrew, kẻ phản bội, “suy sụp” ư? Có phải hắn chợt nhận ra đây là lần cuối cùng hắn nhìn thấy má Lily và ba James?

Và cuối cùng, lại là bà Bathilda, người kể những câu chuyện đáng ngạc nhiên về cụ Dumbledore. Thực sự thật đáng kinh ngạc rằng cụ Dumbledore…

Cụ Dumbledore như thế nào nhỉ? Nhưng cũng có một số chuyện kỳ lạ về cụ Dumbledore; như chuyện cụ nhận một điểm kém ở bài kiểm tra môn Biến, hoặc có một niềm say mê với những con dê như cụ Abeforth…

Harry đứng lên và kiểm tra cẩn thận khắp sàn nhà: Có lẽ, phần còn lại của bức thư cũng ở quanh đây. Nó chộp lấy những tờ giấy với đầy sự háo hức, nhưng ít sự cân nhắc như một người tìm kiếm thông thường; nó kéo những cái ngăn kéo ra, rũ rũ những quyển sách, đứng lên ghế để với tay lên tủ quần áo, còn bò xuống cả giường và ghế bành.

Cuối cùng, nằm úp mặt xuống sàn, nó phát hiện ra một mảnh giấy bị xé ở bên dưới gầm ngăn kéo. Khi Harry lấy được ra, nó có vẻ như là tấm ảnh mà má Lily đã nhắc đến. Trong bức ảnh, một thằng bé tóc đen đang phóng lên cái chổi đồ chơi, hét lên với những tiếng cười, và đôi chân của ba James đang đuổi theo phía sau. Harry cho tấm ảnh vào túi cùng với bức thư của má Lily và tiếp tục tìm phần thứ hai của bức thư.

Sau mười lăm phút, nó buộc phải thừa nhận, phần còn lại của lá thư đã không còn. Có lẽ, nó đã thất lạc sau mười sáu năm được viết, hoặc nó đã bị lấy đi bởi ai đó khi lục lọi căn phòng này? Harry đọc lại phần thứ nhất của lá thư một lần nữa, lần này để tìm những gợi ý chứng tỏ phần thứ hai của lá thư rất có giá trị. Cái chổi đồ chơi của nó khó có thể là thứ được bọn Tử Thần thực Tử chú ý…Thứ duy nhất có vẻ hữu ích mà nó thấy là những thông tin về cụ Dumbledore. Thực sự thật đáng kinh ngạc rằng cụ Dumbledore – cái gì nhỉ?

“Harry? Harry? Harry!”

“Mình ở đây!” Nó gọi lớn. “Chuyện gì vậy?”

Có tiếng ồn ào của bước chân bên ngoài cửa, và Hermione ào vào bên trong. “Bọn mình thức dậy mà không thấy cậu đâu!” Cô bé thở hổn hển. Rồi cô bé quay lại và gọi với qua vai. “Ron! Mình tìm thấy cậu ấy rồi!”

Giọng nói khó chịu của Ron vọng lên từ nhiều tầng bên dưới. “Tốt quá! Chuyển lời hộ mình rằng cậu ấy là một thằng ngốc!”

“Harry, xin đừng biến mất như vậy, bọn mình rất sợ! Tại sao cậu lại lên đây?” Cô bé nhìn quanh căn phòng đã được lục lọi rất kỹ. “Cậu đang làm gì ở đây?”

“Tìm thấy thứ mình vừa mới tìm được!”

Nó đưa bức thư của má mình ra. Hermione đón lấy và đọc nó, trong khi Harry nhìn cô bé. Khi đọc xong, cô bé ngẩng lên nhìn nó.

“Ồ Harry…”

“Và cái này nữa…”

Nó đưa cho cô bé tấm ảnh đã rách, và Hermione cười khi thằng bé trong ảnh nhảy lên cái chổi đồ chơi và phóng ra khỏi tầm mắt.

“Mình đang tìm phần còn lại của bức thư!” Harry nói. “Nhưng nó không ở đây!”

Hermione liếc nhìn quanh.

“Cái đống lộn xộn này là do cậu tạo ra, hay nó đã như thế này khi cậu lên đây?”

“Ai đó đã tìm kiếm ở đây trước mình.” Harry đáp.

“Mình cũng nghĩ vậy. Tất cả các căn phòng trên đường mình lên đây đều giống như vậy. Cậu nghĩ bọn chúng tìm kiếm cái gì vậy?”

“Thông tin về Hội, nếu người lục lọi là hắn, Snape…”

“Nhưng cậu có nghĩ là hắn đã có đủ mọi thông tin hắn cần không? Hắn đã ở trong Hội mà, phải không.”

“Vậy thì,” Harry nói, chuyển sang bàn luận về giả thuyết của mình. “Thông tin gì về cụ Dumbledore nhỉ? Ở trang thứ hai của bức thư ấy. Cậu biết cái bà Bathilda mà má mình nhắc đến đấy, cậu biết bà ấy mà.”

“Ai cơ?”

“Bathilda Bagshot, tác giả quyển -”

“Lịch sử pháp thuật,” Hermione nói, có vẻ rất quan tâm. “Vậy là ba má cậu biết bà ấy à? Bà ấy là một nhà sử gia pháp thuật xuất sắc!”

“Và bà ấy còn sống!” Harry nói. “Và bà ấy sống ở thung lũng Godric. Dì Muriel của Ron đã nhắc đến điều đó ở lễ cưới. Bà ấy cũng biết về gia đình của cụ Dumbledore. Khá là thú vị nếu nói chuyện với bà ấy, phải không?”

Không có nhiều sự thông cảm trong nụ cười mà Hermione dành cho Harry. Nó lấy lại lá thư và tấm ảnh, đút vào cái túi nhỏ ở quanh cổ để không phải nhìn thấy cô bé và lùi lại. “Mình hiểu rằng cậu rất muốn nói chuyện với bà ấy về ba má cậu, về cụ Dumbledore nữa!” Hermione nói. “Nhưng điều đó có giúp gì chúng ta trong việc tìm kiếm các Horcrux không?” Harry không trả lời, và cô bé tiếp tục. “Harry, mình biết là cậu thực sự muốn đến thung lũng Godric, nhưng mình sợ. Mình rất sợ cái việc bọn Tử Thần Thực Tử đã tìm ra chúng ta dễ dàng đến thế nào trong ngày hôm qua. Điều đó khiến mình cảm thấy rõ ràng hơn bao giờ hết là chúng ta nên tránh cái nơi ba má cậu được chôn cất. Mình chắc chắn rằng bọn chúng sẽ rất mong chờ cậu đến thăm nơi đó.”

“Không chỉ có thế…” Harry nói, vẫn tránh nhìn vào cô bé. “Dì Muriel nói một số thứ về cụ Dumbledore ở lễ cưới. Mình muốn biết sự thật.”

Nó nói với Hermione mọi điều mà dì Muriel đã nói với nó. Khi nó kết thúc, Hermione nói. “Dĩ nhiên, mình hiểu điều đó làm cậu buồn, Harry”

“Mình không buồn!” Harry nói dối. “Mình chỉ muốn biết đó có phải là sự thật hay không”

“Harry cậu có thực sự nghĩ là sẽ tìm được sự thật từ những mụ già như dì Muriel, hoặc mụ Rita Skeeter? Làm sao mà cậu có thể tin bọn họ? Cậu biết cụ Dumbledore mà!”

“Mình nghĩ là thế!” Nó thì thầm.

“Nhưng cậu cũng biết là có bao nhiêu sự thật trong những gì mụ Rita viết về cậu đấy! Ông Doge đúng đấy, làm sao cậu có thể để những người đó làm nhơ bẩn những hồi ức của cậu về cụ Dumbledore?”

Nó quay đi, cố không để lộ sự oán giận mà nó đang cảm thấy. Lại một lần nữa, phải chọn xem nên tin cái gì. Nó muốn biết sự thật. Vậy tại sao mọi người đều quyết định rằng nó không nên biết?

“Chúng ta xuống bếp không?” Hermione đề nghị sau một lúc im lặng. “Kiếm cái gì đó cho bữa sáng?”

Nó đồng ý một cách miễn cưỡng, và theo cô bé ra đến đầu cầu thang, đi qua cánh cửa thứ hai. Có những vết cào sâu dưới lớp sơn cửa, bên dưới một tấm biển nhỏ mà nó nhận ra ở trong bóng tối. Nó đi lên bậc thang cao nhất để đọc. Đó là một tấm biển nhỏ đầy phô trường, chữ viết bằng tay gọn gàng giống cái kiểu mà Percy Weasley đã từng treo trước cánh cửa phòng ngủ của anh ta.

ĐỪNG VÀO ĐÂY

NẾU KHÔNG CÓ SỰ CHO PHÉP RÕ RÀNG CỦA

Regulus Arcturus Black

Sự kích động tràn ngập lấy Harry, nhưng nó không chắc chắn ngay vì sao. Nó đọc lại tấm biển lần nữa. Hermione đã đi xuống tầng dưới.

“Hermione,” Nó nói, ngạc nhiên khi giọng mình rất bình tĩnh. “Hãy quay lại đây!”

“Chuyện gì vậy?”

“R.A.B. Mình nghĩ mình tìm ra người đó rồi!”

Há hốc miệng vì kinh ngạc, Hermione chạy vội lên.

“Trong lá thư của má cậu à? Nhưng mình không nghĩ là mình thấy -”

Harry lắc đầu, chỉ vào tấm biển của chú Regulus. Cô bé đọc nó, rồi nắm tay Harry chặt đến nỗi nó phải nhăn mặt.

“Em trai của chú Sirius à?” Cô bé thì thào.

“Chú ấy đã từng là một Tử Thần Thực Tử.” Harry nói. “Chú Sirius đã kể cho mình nghe về chú ấy, chú ấy đã gia nhập cùng bọn chúng khi còn rất trẻ, sau đó chú ấy cảm thấy mình thật hèn nhát và muốn rời khỏi bọn chúng – vì thế bọn chúng đã giết chú ấy!”

“Mọi thứ đều khớp!” Hermione hổn hển. “Nếu chú ấy là một Tử Thần Thực Tử và đã gặp Voldemort, và nếu chú ấy tỉnh ngộ, thì chú ấy sẽ muốn hắn sụp đổ!”

Cô bé thả tay Harry ra, ngó đầu qua lan can và hét lên. “Ron! RON! Lên đây, nhanh lên!”

Ron xuất hiện, thở hổn hển, đũa phép đã sẵn sàng trong tay.

“Chuyện gì vậy? Nếu đó là về những con nhện khổng lồ, thì mình muốn có bữa sáng trước khi”

Nó cau mày lại trước tấm bảng của chú Regulus mà Hermione đang im lặng chỉ vào.

“Cái gì? Em trai của chú Sirius à? Regulus Arcturus…Regulus…R.A.B.! Cái mề đay -cậu không cho rằng”

“Hãy tìm xem!” Harry nói. Nó đẩy cửa, nhưng cửa đã khoá. Hermione chỉ đũa phép vào tay cầm và nói. “Alohamora.” Có một tiếng click, và cánh cửa mở ra.

Bọn chúng cùng tiến đến ngưỡng cửa, nhìn quanh. Phòng của chú Regulus nhỏ hơn một chút so với chú Sirius, nhưng không vì thế mà mất đi vẻ đàng hoàng nghiêm trang. Trong khi chú Sirius luôn tìm kiếm sự khác biệt với phần còn lại của gia đình, thì chú Regulus lại có vẻ muốn nhấn mạnh điều ngược lại. Màu truyền thống của Slytherin, xanh lục bảo và bạc ở khắp nơi, che phủ giường ngủ, tường và cửa sổ. Con dấu của gia đình Black được sơn cẩn thận lên giường, cùng với một câu ngắn gọn, TOUJOURS PUR (ND: Tiếng Pháp: LUÔN LUÔN THUẦN CHỦNG). Bên dưới là một bộ sưu tập những bài báo màu vàng được cắt ra, tất cả đã nói lên đó là một người cắt dán ảnh tồi tệ. Hermione đi dọc căn phòng và kiểm tra chúng.

“Tất cả đều nói về Voldemort!” Cô bé nói. “Chú Regulus có vẻ là một người hâm mộ hắn trước khi gia nhập bọn Tử Thần Thực Tử!”

Một làn hơi của bụi hoa hồng toả ra từ khăn trải giường khi cô bé ngồi xuống để đọc những bài báo bị cắt ra đó. Harry, trong lúc đó, để ý đến một bức ảnh khác: một đội Quidditch trường Hogwarts đang mỉm cười và vẫy vẫy từ khung hình. Nó di chuyển đến gần hơn và thấy biểu tượng con rắn trên ngực họ: Biểu tượng của Slytherin. Chú Regulus được nhận ra ngay lập tức, chú ngồi giữa hàng đầu tiên: Chú có mái tóc đen và khuôn mặt hơi kiêu căng giống như anh mình, nhưng chú cao hơn, gầy hơn, và không đẹp trai như chú Sirius.

“Chú ấy là một Tầm Thủ!” Harry nói

“Cái gì?” Hermione trả lời một cách lơ đãng. Cô bé đang đắm chìm trong những bài báo về Voldemort.

“Chú ấy ngồi giữa hàng thứ nhất, đó là vị trí của Tầm Thủ…Đừng


bận tâm,” Harry nói, nhận ra rằng không ai nghe nó. Ron đang chống tay quỳ xuống tìm phía bên dưới tủ quần áo. Harry nhìn quanh phòng, cố tìm một nơi có thể ẩn giấu và dừng lại ở cái bàn. Lại một lần nữa, có ai đó đã lục lọi ở đây. Những gì ở trong ngăn kéo đều đã được lôi ra, bụi bẩn khắp nơi, và không có gì đáng giá ở đây: những chiếc bút lông ngỗng cũ, những quyển sách đã lỗi thời là bằng chứng rõ ràng cho việc chúng đã được sử dụng thô bạo, một bình mực bị vỡ, những vết mực còn lại nhớp nháp bao phủ cái ngăn kéo.

“Có một cách dễ dàng hơn!” Hermione nói, khi Harry đang chùi bàn tay đầy mực vào cái quần jeans của nó. “Accio Locket!” (Triệu hồi mề đay! – ND)

Không có gì xảy ra. Ron, đang tìm kiếm ở những nếp gấp của tấm rèm cửa, tỏ vẻ thất vọng.

“Có phải vậy không? Nó không có ở đây à?”

“Ồ, có thể nó vẫn ở đây, nhưng bị bùa chú bảo vệ!” Hermione nói. “Những bùa chú ngăn cho nó khỏi bị triệu tập bởi phép thuật. Các cậu biết đấy!”

“Giống như Voldemort đã làm với cái chậu đá trong hang!” Harry nói, nhớ lại là mình đã không thể triệu tập cái mặt dây chuyền giả.

“Làm thế nào chúng ta tìm ra nó đây?” Ron hỏi.

“Chúng ta tìm thủ công vậy,” Hermione trả lời.

“Ý kiến hay đấy,” Ron đảo mắt đáp, rồi quay lại với việc kiểm tra rèm cửa.

Bọn chúng lục lọi từng thước một của căn phòng trong hơn một giờ, và buộc phải thừa nhận rằng, cái mặt dây chuyền không có ở đây.

Bây giờ, mặt trời đã lên; dù chiếu qua ô cửa đầy bụi bặm, ánh nắng vẫn làm chúng loá mắt.

“Dù sao, nó có thể ở một nơi nào đó trong căn nhà này,” Hermione nói bằng một giọng khá bình tĩnh khi đi xuống cầu thang. Khi Harry và Ron đã trở nên nản chí, cô bé càng có vẻ khẳng định hơn. “Dù chú ấy có tiêu diệt được nó hay không, chú ấy sẽ muốn ẩn giấu nó khỏi Voldemort, phải không? Các cậu có nhớ tất cả những thứ kinh khủng mà chúng ta đã vứt đi khi ở đây lần cuối cùng không? Cái đồng hồ phóng điện vào tất cả mọi người và cái áo choàng cố bóp cổ Ron; Chú Regulus chắc hẳn đã vứt chúng ở đó để che đi nơi ẩn giấu cái mặt dây chuyền, chỉ là chúng ta không nhận ra…nhận ra…”

Harry và Ron nhìn cô bé. Cô bé đang đứng với một chân vẫn đang giơ lên không khí, với cái nhìn chết lặng như vừa bị trúng bùa Đổi Ký Ức, đôi mắt cô như muốnbật khỏi con ngươi.

“…đúng lúc!” Cô bé thì thào.

“Có cái gì không ổn à?” Ron nói.

“Có một cái mặt dây chuyền.”

“Cái gì?” Ron và Harry nói cùng một lúc.

“Trong ngăn tủ ở phòng khách. Không ai có thể mở nó. Và chúng ta…chúng ta…”

Harry có cảm giác như một cục gạch vừa trôi tuột từ ngực xuống dạ dày. Nó đã nhớ ra. Nó thậm chí còn cầm vào vật đó khi bọn họ truyền cho nhau, mỗi người đều lần lượt cạy nó ra. Vật đó đã bị ném vào đống rác rưởi, cùng với cái chụp đèn đầy bột mụn cóc và cái hộp nhạc khiến mọi người buồn ngủ…

“Kreacher đã lấy lại rất nhiều thứ bị chúng ta vứt đi!” Harry nói. Đó là cơ hội duy nhất, một hy vọng mong manh còn lại, và nó sẽ tiếp tục bám vào hy vọng ấy cho đến khi buộc phải từ bỏ. “Nó giấu cả đống đồ đạc trong cái tủ trong nhà bếp. Đến đó nào!”

Nó đi xuống cầu thang, nhảy hai bậc một lúc, hai đứa kia cũng chạy sát theo sau. Chúng gây ra quá nhiều tiếng ồn đến nỗi chúng làm thức giấc tấm chân dung của mẹ chú Sirius khi đi ngang qua đại sảnh.

“Rác rưởi! Máu bùn! Cặn bã!” Bà ta hét lên theo những bước chân khi chúng xông vào nhà bếp và đóng sầm cánh cửa đằng sau.

Harry chạy theo chiều dài căn phòng, dừng lại ở cánh cửa tủ của Kreacher, giật mạnh nó ra. Có một đống chăn cũ ở nơi mà con gia tinh đã từng ngủ, nhưng không còn ánh sáng lấp lánh từ những thứ đồ nữ trang rẻ tiền mà Kreacher thu nhặt được nữa. Thứ duy nhất còn lại là quyển sách có tựa Sự Cao Quý Tự Nhiên: Một Bảng Phả Hệ Phù Thuỷ. Không tin vào mắt mình, Harry vồ lấy những tấm chăn và rũ rũ chúng. Mùi chuột chết bay ra và lan toả khắp phòng. Ron rên rỉ khi tự ném mình lên chiếc ghế của nhà bếp; còn Hermione thì nhắm mắt lại.

“Chưa kết thúc đâu!” Harry nói, và nó cao giọng gọi. “Kreacher!”

Có một tiếng nổ lớn và con gia tinh Harry bất đắc dĩ thừa hưởng từ chú Sirius hiện ra phía trước cái lò sưởi trống rỗng và ẩm ướt: nhỏ bé chỉ bằng nửa người thường, làn da nhợt nhạt hiện ra ở những nếp gấp quần áo, rất nhiều sợi tóc trắng mọc ra từ đôi tai giống tai dơi của con gia tinh. Nó vẫn mặc cái giẻ bẩn thỉu như lần đầu bọn chúng gặp nó, và cái nhìn khinh bỉ mà nó dành cho Harry đã chứng tỏ rằng, thái độ của nó với sự thay đổi chủ nhân không hề thay đổi, giống hệt như vẻ bề ngoài của nó.

“Chủ nhân…” Kreacher rền rĩ qua cái giọng giống như ếch, và nó cúi xuống, tự nói với đầu gối của mình. “…đã trở lại căn nhà cũ của bà chủ cùng với tên Weasley, kẻ phản bội dòng máu và con Máu bùn…”

“Ta cấm mi được gọi bất kỳ ai là ‘kẻ phản bội dòng máu’ hay ‘Máu bùn’!” Harry gầm gừ. Nó đã tìm ra Kreacher, với cái mũi dài và đôi mắt đỏ ngầu, một thứ rõ ràng là rất khó ưa, nhất là khi con gia tinh đã bán đứng chú Sirius cho Voldemort.

“Ta có một câu hỏi cho mi!” Harry nói, tim nó đập nhanh khi nó nhìn xuống con gia tinh. “Và ta ra lệnh cho mi phải trả lời đúng sự thật, hiểu không?”

“Vâng, thưa chủ nhân!” Kreacher nói, lại cúi thấp xuống lần nữa. Harry thấy mồm của con gia tinh không hề chuyển động, không nghi ngờ gì nữa, nó không thể thốt ra bất kỳ một lời lăng mạ nào.

“Hai năm trước,” Harry nói, tim nó đập nhanh trong lồng ngực, “có một cái mặt dây chuyền to bằng vàng ở căn phòng khách trên gác. Chúng ta đã ném nó đi. Mi có lấy cắp nó lại không?”

Có một khoảng im lặng, rồi con gia tinh đứng thẳng lên để nhìn rõ mặt Harry. Sau đó nó nói: “Có!”

“Hiện giờ nó đang ở đâu?” Harry hỏi một cách hân hoan trong khi Ron và Hermione rất vui sướng.

Kreacher nhắm mắt lại như thể nó không thể chịu đựng được phản ứng của bọn chúng khi nó trả lời

“Mất rồi.”

“Mất rồi?” Harry lặp lại, sự phấn chấn đã trôi tuột đi mất. “Thế nghĩa là sao, nó mất rồi à?”

Con gia tinh rùng mình. Nó lắc đầu.

“Kreacher!” Harry nói một cách dữ dội. “Ta ra lệnh”

“Mundungus Fletcher!” Con gia tinh rền rĩ, mắt vẫn nhắm chặt. “Mundungus Fletcher đã lấy cắp tất cả; những bức ảnh của cô Bella và cô Cissy, đôi găng tay của Bà chủ, Huân chương Merlin Đệ Nhất Đẳng, cái cốc có phù hiệu của gia đình, và- và-”

Kreacher hít thở sâu: Bộ ngực trống rỗng của nó phồng lên rồi lại sẹp xuống, rồi nó mở mắt ra và hét lên một cách kinh hoàng.

“– và chiếc mặt dây chuyền, chiếc mặt dây chuyền của cậu chủ Regulus. Kreacher đã làm sai rồi! Kreacher đã không thực hiện được lệnh của cậu ấy!”

Harry vội hành động theo bản năng: Khi Kreacher lao về những cái dùi nung ở lò sưởi, nó túm lấy con gia tinh, đè nó xuống. Tiếng thét của Hermione hoà lẫn vào tiếng thét của Kreacher, nhưng Harry gầm lên, át đi những âm thanh khác, “Kreacher, ta ra lệnh cho mi phải giữ yên!”

Nó cảm nhận thấy con gia tinh như bị đóng băng và nó buông tay ra. Kreacher nằm sóng soài trên sàn nhà đá lạnh, nước mắt ràn rụa chảy ra từ đôi mắt.

“Harry, để nó đứng lên đi!” Hermione thì thầm.

“Để nó có thể tự đánh mình bằng những cái dùi nung à?” Harry khịt khịt mũi, quỳ xuống cạnh con gia tinh. “Tớ không nghĩ vậy đâu. Được rồi, Kreacher, ta muốn sự thật: Làm thế nào mà mi biết Mundungus Fletcher đã ăn trộm cái mặt dây chuyền?”

“Kreacher nhìn thấy hắn!” Con gia tinh thở hổn hển khi nước mắt lăn xuống mũi và chảy vào cái mồm đầy những răng xám xịt. “Kreacher thấy hắn đi ra từ cái tủ của Kreacher, trên tay cầm đầy những của cải của Kreacher. Kreacher đã nói với tên trộm ấy hãy dừng lại, nhưng tên Mundungus Fletcher ấy chỉ cười và ch-chạy…”

“Mi gọi cái mặt dây chuyền là của ‘cậu chủ Regulus’!” Harry nói. “Tại sao? Cái mặt dây chuyền đó từ đâu đến? Chú Regulus phải làm gì với nó? Kreacher, hãy ngồi dậy và kể cho ta biết mọi chuyện về cái mặt dây chuyền, mọi thứ mà chú Regulus phải làm với nó!”

Con gia tinh ngồi xuống, cuộn lại như một quả bóng, đặt khuôn mặt đầy nước mắt lên đầu gối, và bắt đầu lúc lắc người về phía trước rồi lại về phía sau. Khi nó nói, tiếng nói như bị bóp nghẹt lại, nhưng vẫn nghe rất rõ ràng trong sự im lặng và dội lại khắp nhà bếp.

“Cậu chủ Sirius bỏ đi, tự giải thoát chính mình, vì cậu ấy là một người con trai tồi và đã làm đau đớn trái tim của bà chủ bằng cái thói quen lộn xộn, vô tổ chức. Nhưng cậu chủ Regulus lại rất biết nghe lời; cậu chủ biết mình phải có nghĩa vụ gì với dòng họ Black và giá trị của dòng máu thuần chủng. Hàng năm trời, cậu chủ nói về Chúa Tể Hắc Ám, người sẽ đưa những phù thuỷ ra khỏi chỗ ẩn nấp để điều khiển dân Muggle…và khi mười sáu tuổi, cậu chủ Regulus gia nhập với chúa tể Hắc Ám. Rất đáng tự hào, rất đáng tự hào, rất hạnh phúc được phục vụ…

“Sau một năm gia nhập, vào một ngày, cậu chủ Regulus xuống bếp để gặp Kreacher. Cậu chủ Regulus luôn luôn yêu quý Kreacher. Và cậu chủ Regulus nói rằng…nói…

Con gia tinh già lắc lư càng dữ dội.

“…nói rằng Chúa Tể Hắc Ám cần một gia tinh?”

“Voldemort cần một gia tinh?” Harry lặp lại, nhìn sang Ron và Hermione, cả hai đứa trông cũng bối rối y như nó.

“Ồ vâng,” Kreacher rên rỉ. “Và cậu chủ Regulus đã đề cử Kreacher. Đó là một niềm vinh hạnh, cậu chủ Regulus nói vậy, niềm vinh hạnh cho cả cậu chủ Regulus và Kreacher, Kreacher sẽ phải làm tất cả những gì mà Chúa tể Hắc Ám sai bảo…và sau đó về n-nhà…”

Kreacher lắc lư nhanh hơn, tiếng thở của nó giờ đã thành tiếng nức nở

“Vì thế, Kreacher đi cùng Chúa Tể Hắc Ám. Chúa Tể Hắc Ám không nói phải làm gì, nhưng đưa Kreacher đên một cái hang gần biển. Và bên trong cái hang là một hang động lớn, trong đó có một cái hồ lớn đen ngòm…”

Harry như dựng tóc gáy. Tiếng rền rĩ của Kreacher nghe như vọng đến từ mặt nước tối tăm. Nó có thể nhìn thấy mọi thứ rõ ràng như thể nó có mặt ở đó.

“…Có một con thuyền ở đó…”

Dĩ nhiên là có một con thuyền, Harry biết con thuyền đó, nhỏ bé và có một màu xanh ma quỷ, đã được bỏ bùa để chở một phù thuỷ và một nạn nhân đi đến hòn đảo ở trung tâm. Voldemort đã thử nghiệm sự phòng thủ quanh cái Horcrux, bằng cách mượn một sinh vật sẵn có, một con gia tinh…”

“Có một cái chậu đầy độc dược ở trên đảo. Chúa – Chúa Tể Hắc Ám bắt Kreacher phải uống nó…”

Con gia tinh run rẩy từ đầu đến chân.

“Kreacher uống, và khi uống, nó nhìn thấy những điều khủng khiếp…Kreacher như bị thiêu đốt từ bên trong…Kreacher kêu la, mong cậu chủ Regulus sẽ cứu nó, nó cầu cứu bà chủ Black…Nhưng Chúa Tể Hắc Ám chỉ cười…Hắn bắt Kreacher uống hết chỗ độc dược…Hắn thả một cái mặt dây chuyền vào cái chậu rỗng…Hắn lại đổ đầy nó bằng độc dược…”

“Và Chúa Tể Hắc Ám bỏ đi, để lại mình Kreacher trên đảo…”

Harry có thể thấy chuyện đó xảy ra. Nó thấy khuôn mặt giống rắn, trắng bệch của Voldemort tan biến trong bóng tối, con mắt đỏ lừ nhìn con gia tinh sắp chết trong chốc lát một cách không thương tiếc, khi nó đang chống cự một cách liều lĩnh cái khát khô cháy cổ họng mà thứ độc dược đó gây ra cho nạn nhân…Nhưng đến đây, trí tưởng tượng của Harry không thể đi xa hơn được nữa, bởi lẽ nó không biết làm thế nào mà Kreacher thoát ra được.

“Kreacher cần nước, nó bò đến rìa hòn đảo để uống nước từ mặt hồ đen đó…và những bàn tay, những bàn tay chết chóc thò lên cố kéo Kreacher xuống mặt nước…”

“Làm thế nào mà mi thoát ra được?” Harry hỏi, không ngạc nhiên khi thấy mình đang thì thào.

Kreacher ngẩng cái đầu xấu xí của nó lên, nhìn Harry bằng đôi mắt đỏ ngầu to tướng.

“Cậu chủ Regulus gọi Kreacher quay về…”

“Ta biết – nhưng làm thế nào mi thoát khỏi bọn Âm Binh?

Kreacher có vẻ không hiểu.

“Cậu chủ Regulus gọi Kreacher quay về…” Nó lặp lại.

“Ta biết, nhưng”

“Chẳng phải mọi thứ đã quá rõ ràng sao, Harry!” Ron nói. “Nó Độn thổ ra.”

“Nhưng…không thể Độn thổ vào hoặc ra cái hang đó được,” Harry nói. “nếu không thì cụ Dumbledore”

“Phép thuật của gia tinh không giống phép thuật của phù thuỷ, phải không?” Ron nói. “Ý mình là, bọn chúng có thể Độn thổ và Hiện hình ở Hogwarts trong khi chúng ta thì không thể…”

Có một sự im lặng khi Harry suy nghĩ về điều đó. Làm thế nào mà Voldemort lại phạm phải sai lầm này nhỉ? Nhưng ngay khi nó nghĩ đến điều đó, Hermione lên tiếng, giọng cô bé khá lạnh lùng.

“Dĩ nhiên, Voldemort cho rằng những con Gia tinh chưa bao giờ là một mối quan tâm cửa hắn, như tất cả những phù thuỷ thuần chủng đối xử với chúng như những con thú…Chưa bao giờ hắn nghĩ rằng, bọn gia tinh lại có những phép thuật mà hắn không có.”

“Mệnh lệnh cao nhất đối với gia tinh là yêu cầu của Chủ nhân!” Kreacher nói. “Kreacher được bảo phải về nhà, vì vậy Kreacher đã về nhà…”

“Vậy thì, ông phải làm những gì ông được bảo, phải không?” Hermione nói một cách thân thiện. “Ông thực sự đã không hề chống lệnh!”

Kreacher lắc đầu, lắc lư dữ dội hơn bao giờ hết.

“Vậy chuyện gì đã xảy ra khi mi quay lại?” Harry hỏi. “Chú Regulus đã nói gì khi mi kể cho chú ấy nghe chuyện gì đã xảy ra?”

“Cậu chủ Regulus đã lo lắng, rất lo lắng,” Kreacher rên rỉ. “Cậu chủ Regulus nói rằng Kreacher phải trốn và không được rời khỏi căn nhà. Và rồi…một thời gian sau…một buổi tối, cậu chủ Regulus đến bên cái tủ để tìm Kreacher, cậu chủ Regulus trông rất lạ, trông không giống ngày thường chút nào, cậu chủ có vẻ đang rối loạn…Kreacher cho là như vậy…và cậu chủ bảo Kreacher dẫn đến cái hang mà Kreacher đã đến cùng với Chúa Tể Hắc Ám…”

Và rồi họ rời đi. Harry có thể tưởng tượng khá rõ ràng, con gia tinh đang sợ hãi đi với một người Tầm Thủ gầy, da ngăm đen, rất giống chú Sirius…Kreacher biết cách mở lối vào bị ẩn giấu của hang động ngầm dưới đất, biết cách để gọi cái thuyền lên, lần này, là cậu chủ Regulus yêu quý đi với nó đến hòn đảo có cái chậu đầy độc dược…

“Và chú ấy bắt mi uống thứ độc dược đó?” Harry nói, giận dữ.

Nhưng Kreacher lắc đầu và khóc. Hermione lấy tay bịt mồm lại; cô hình như vừa hiểu ra một điều gì đó.

“C-Cậu chủ Regulus lấy một cái mặt dây chuyền từ túi của mình, giống hệt cái mặt dây chuyền của Chúa Tể Hắc Ám…” Kreacher nói, nước mắt chảy ra từ cả hai lỗ mũi. “Và cậu chủ bảo Kreacher giữ nó, hãy tráo đổi khi cái chậu đã trống rỗng…”

Tiếng nức nở của Kreacher giờ đã thành những tiếng the thé khó chịu; Harry phải rất tập trung để hiểu những gì nó nói.

“Và cậu chủ ra lệnh – Kreacher phải đi – một mình mà không có cậu chủ. Và cậu chủ dặn Kreacher phải về nhà – không được nói với Bà chủ – về những gì cậu chủ đã làm – nhưng phải tiêu huỷ – cái mặt dây chuyền thật. Và cậu chủ uống – tất cả chỗ độc dược ấy – và Kreacher tráo đổi cái mặt dây chuyền – và nhìn…khi cậu chủ Regulus…bị kéo xuống nước…và…”

“Ôi, Kreacher!” Hermione bật khóc. Cô bé quỳ gối xuống cạnh con gia tinh và cố gắng ôm nó. Ngay tức khắc con gia tinh đứng lên, lùi lại, tránh xa khỏi cô bé.

“Máu Bùn chạm vào Kreacher, nó sẽ không để điều đó xảy ra. Bà Chủ sẽ nói gì đây?”

“Ta đã bảo mi không được gọi người khác là ‘Máu Bùn’ cơ mà!” Harry gầm gừ, nhưng con gia tinh đã tự trừng phạt chính mình. Nó ngã xuống, và tự đập đầu mình xuống sàn.

“Dừng lại, dừng lại!” Hermione thổn thức. “Ồ, cậu chuyện này nó đáng kinh tởm như thế nào, cách mà bọn chúng phải tuân lệnh?”

“Kreacher – dừng lại!” Harry hét lên.

Con gia tinh vẫn nằm trên sàn, thở hổn hển và run lẩy bẩy, nước mũi xanh lè nhớp nháp, có một vết thâm tím trên cái trán vàng vọt của nó, mắt nó sưng phồng, đỏ ngầu và đầy nước mắt. Harry chưa từng thấy điều gì đáng thương xót như thế.

“Vì thế mi mang cái mặt dây chuyền về nhà…” Nó nói luôn, bởi nó quyết định là mình phải biết toàn bộ câu chuyện. “Và mi đã cố tiêu huỷ nó?”

“Không có cách gì Kreacher có thể gây xây xước cho nó,” Con gia tinh than vãn. “Kreacher đã thử mọi thứ, mọi thứ mà nó biết, nhưng không có gì, không có gì có hiệu quả cả…Rất nhiều bùa chú mạnh mẽ đã được sử dụng, Kreacher chắc rằng để tiêu diệt nó, thì phải mở nó ra, nhưng nó không hề mở…Kreacher tự phạt chính mình, nó thử một lần nữa, lại tự phạt chính mình, rồi lại thử. Kreacher đã không thực hiện được mệnh lệnh! Kreacher không thể tiêu huỷ cái mặt dây chuyền! Và bà chủ thì điên lên với nỗi buồn, bởi cậu chủ Regulus đã biến mất mà Kreacher không thể nói cho bà biết chuyện gì đã xảy ra, không, bởi vì cậu chủ đã c..câ..cấm nó được nói cho bất kỳ ai trong gia đi…đình biết chuyện gì đã xảy ra trong cái h…hang…”

Kreacher bắt đầu thổn thức, mạnh đến nỗi không còn sự liên kết giữa những từ ngữ nữa. Nước mắt lăn dài trên má Hermione, nhưng cô bé không dám chạm vào con gia tinh lần nữa. Ngay cả Ron, người không yêu quý Kreacher cho lắm, cũng có vẻ bồn chồn. Harry ngồi xuống và lắc lắc đầu, cố gắng làm sạch nó.

“Ta không hiểu, Kreacher,” Rốt cuộc, nó nói. “Voldemort cố để giết mi, chú Regulus chết để làm cho Voldemort sụp đổ, nhưng mi vẫn vui khi bán đứng chú Sirius cho Voldemort? Mi vui khi đến với mụ Narcissa và mụ Bellatrix, và tuồn thông tin cho Voldemort qua bọn chúng…”

“Harry, Kreacher không nghĩ như vậy đâu!” Hermione nói, cô bé đang chùi nước mắt bằng tay. “Ông ấy là nô lệ; gia tinh thường bị ngược đãi và đối xử tàn tệ; những gì Voldemort làm với Kreacher không đi khỏi xu thế chung đó. Chiến tranh của phù thuỷ thì có ý nghĩa gì với Kreacher chứ? Ông ấy trung thành với ai đối xử tử tế với ông ấy, và bà Black đã làm như vậy, cả chú Regulus nữa, vì thế ông ấy phục vụ họ một cách tận tình và tin theo niềm tin của họ. Mình biết cậu định nói gì…” Cô bé tiếp tục khi Harry định phản đối. “…rằng chú Regulus đã thay đổi ý định. Nhưng chú ấy đâu có giải thích cho Kreacher, phải không? Và mình nghĩ là mình biết tại sao. Gia đình của chú Regulus và Kreacher đều sẽ an toàn nếu họ duy trì được dòng máu thuần chủng. Chú Regulus đã cố gắng để bảo vệ tất cả.”

“Chú Sirius”

“Chú Sirius là một nỗi kinh hoàng với Kreacher, Harry, mọi thứ không tốt đẹp như cậu thấy đâu, cậu biết đó là sự thật mà. Kreacher đã ở một mình trong một thời gian dài trước khi chú Sirius đến đây, và ông ấy chắc hẳn đã rất khổ sở vì sự ảnh hưởng đó. Mình chắc rằng ‘Cô chủ Cissy’ và ‘Cô chủ Bella’ đã rất tử tế thân thiện với Kreacher khi ông ấy đến, vì thế ông ấy rất quý bọn chúng và cho bọn chúng biết mọi thứ chúng cần. Mình đã nói từ lâu rồi, phù thuỷ sẽ phải trả giá cho cái cách mà họ đối xử với những con gia tinh. Ừm, Voldemort đã phải trả giá…và cả chú Sirius nữa.”

Harry không thể bắt bẻ lại. Khi nó nhìn Kreacher nức nở trên sàn nhà, nó nhớ lại những gì cụ Dumbledore đã nói với nó, ngay sau cái chết của chú Sirius: Thầy không nghĩ rằng chú Sirius đã nhìn nhận Kreacher với là một sinh vật với cảm xúc tinh tế như cảm xúc của một con người…

“Kreacher!” Sau một lúc, Harry nói. “Khi mi cảm thấy thoải mái…thì hãy ngồi dậy.”

Nhiều phút trôi qua trước khi tiếng nấc của Kreacher phá vỡ sự im lặng. Sau đó, nó chống người ngồi dậy, lấy tay lau mắt như một đứa trẻ nhỏ.

“Kreacher, ta sắp sửa yêu cầu ngươi làm một việc!” Harry nói. Nó liếc sang Hermione để tìm sự giúp đỡ. Nó muốn ra lệnh một cách tử tế, nhưng cùng lúc, nó không thể giả vờ rằng đó không phải một mệnh lệnh. Tuy nhiên, sự thay đổi trong giọng nói của nó đã nhận được sự tán thành của cô bé. Cô bé cười một cách khích lệ.

“Kreacher, tôi muốn ông, hãy đi tìm Mundungus. Chúng ta phải tìm ra cái mặt dây chuyền – cái mặt dây chuyền của chú Regulus ở đâu. Điều này rất quan trọng. Chúng ta phải hoàn thành công việc của chú ấy, chúng ta phải đảm bảo rằng, chú ấy đã không chết – ừm – một cách vô ích.”

Kreacher nắm chặt tay lại và nhìn lên Harry?

“Đi tìm Mundungus Fletcher ư?” Nó rên rỉ

“Và đem hắn đến đây, quảng trường Grimmauld!” Harry nói. “Ông có nghĩ là sẽ làm được điều đó cho chúng tôi không?”

Khi Kreacher gật đầu và đứng lên, Harry bỗng có một ý tưởng bất chợt. Nó lấy từ cái túi của lão Hagrid cái Horcrux giả, cái mặt dây chuyền thay thế mà chú Regulus đã đề cập với Voldemort trong lá thư.

“Kreacher, tôi, ừm, muốn ông lấy cái này!” Nó nói, đặt cái mặt dây chuyền vào tay con gia tinh. “Nó thuộc về chú Regulus và tôi chắc rằng chú ấy muốn ông có nó như một biểu tượng của lòng biết ơn cho những gì ông đã-”

“Được đấy, ông bạn!” Ron nói khi con gia tinh chạm vào chiếc mặt dây chuyền, nó


tru lên vì bị sốc và đau khổ, và tự ném mình xuống sàn.

Mất gần nửa tiếng để khiến Kreacher bình tĩnh, nó đã vượt qua cảm giác được tặng một đồ vật gia truyền của gia đình Black, nó quá yếu đuối để có thể đứng một cách đúng đắn. Cuối cùng, khi nó lảo đảo bước được vài bước, bọn chúng đều đi cùng nó đến cái tủ, chứng kiến nó cất cái mặt dây chuyền một cách an toàn trong những cái chăn cũ bẩn thỉu, và quả quyết với nó rằng bảo vệ cái mặt dây chuyền sẽ là ưu tiên số một của bọn chúng khi nó đi khỏi đây. Sau đó con gia tinh cúi chào Harry và Ron, và thậm chí còn nhăn mặt một cách vui vẻ với Hermione, đó có thể được coi là một sự chào hỏi kính trọng, trước khi nó độn thổ đi với một tiếng rắc lớn như mọi lần.

Chương 11: Vật đút lót.

Nếu Kreacher đã có thể thoát được một cái hồ đầy Âm Binh, thì Harry tin chắc là vụ bắt giữ lão Mudungus cũng chỉ mất nhiều nhất là vài tiếng đồng hồ, nó đi vơ vẩn trong căn nhà cả buổi sáng với niềm mong đợi lớn ấy. Tuy vậy, Kreacher không trở về trong buổi sáng, cũng như buổi chiều. Màn đêm buông xuống, Harry cảm thấy chán nản và mệt mỏi, cộng với một bữa tối mà thành phần chủ yếu là đống bánh mỳ ỉu dù Hermione đã cố gắng hết sức dùng một loạt bùa Biến nhưng bị thất bại, chẳng giúp nó thấy khá khẩm hơn.

Kreacher không trở về trong ngày hôm sau, và cả hôm sau đó. Tuy vậy, có hai kẻ mặc áo chùng xuất hiện tại quảng trường trước cửa ngôi nhà số mười hai ấy. Và chúng đã ở đó cho đến tối mịt, nhìn chằm chằm về phía của ngôi nhà mà chúng không thể thấy được.

“Chúng chắc chắn là Tử Thần Thực Tử rồi,” Ron nói, khi cả bọn đang quan sát từ cửa sổ của căn phòng khách, “chẳng lẽ chúng biết chúng ta ở đây?”

“Mình không nghĩ vậy,” Hermione nói, dù cô bé có vẻ hoảng sợ, “Hoặc là chúng đã cho lão Snape đuổi theo chúng ta, phải không.”

“Cậu cho là lão Snape đã từng ở đây và bị khoá lưỡi bởi lời nguyền của thầy Moody à?” Ron hỏi.

“Phải,” Hermione đáp, “nếu không thì hắn đã có thể nói ra cách để vào được bên trong, phải không? Nhưng bọn chúng xem ra chỉ chờ chúng ta đi ra mà thôi. Chúng chắc hẳn đã biết Harry là chủ nhân thực sự của ngôi nhà.”

“Làm thế quái nào chúng có thể -” Harry lên tiếng.

“Các di chúc phù thuỷ sẽ bị Bộ kiểm tra mà, cậu nhớ không? Họ sẽ biết được là chú Sirius đã để lại cho cậu căn nhà.”

Sự hiện hữu của đám Tử Thần Thực Tử ở bên ngoài đã làm tăng thêm tâm trạng đáng ngại bên trong căn nhà số mười hai. Cả bọn chưa nhận được một thông điệp nhỏ nào kể từ khi Thần Hộ Mệnh của ông Weasley xuất hiện, sự căng thẳng đã bắt đầu gây nên hậu quả. Bồn chồn và cáu kỉnh, Ron tạo ra một thói quen phiền hà là liên tục chơi đùa với cái Tắt-Bật đèn trong túi; Mà việc này làm Hermione đặc biệt nổi khùng, cô nàng phải đọc ngấu nghiến quyển Câu chuyện về những hiệp sĩ xứ Beedle để xua đi nỗi căng thẳng khi mòn mỏi đợi chờ Kreacher, và hiển nhiên là cô bé không đánh giá cao lắm cái cách mà ánh đèn liên tục tắt và bật.

“Cậu thôi đi có được không!” cô nàng thét lên trong buổi tối thứ ba kể từ khi Kreacher đi, khi mà tất cả ánh đèn biến mất trong căn phòng vẽ thêm một lần nữa.

“Xin lỗi, xin lỗi!” Ron vội ấn cái Tắt-Bật đèn một lần nữa, trả lại ánh đèn. “Mình còn không biết mình đã bật nó.”

“Vậy thì, cậu không thể tìm được cái gì hữu ích để lấp đầy cái đầu của cậu hay sao?”

“Sao? Như là việc đọc truyện cho trẻ nít hả?”

“Cụ Dumbledore để cho mình cuốn sách, Ron”

“- và cũng để cho mình cái Tắt-Bật này, mình cho là mình phải dùng nó!”

Không chịu được vụ cãi cọ này, Harry lẻn ra khỏi phòng mà không hề bị chú ý. Nó đi xuống dưới lầu về phía khu nhà bếp, nơi mà nó vẫn ghé thăm thường xuyên; vì nó chắc chắn là nếu Kreacher trở lại thì chỉ có thể là ở đây mà thôi. Nó đi được nửa đường từ trên lầu xuống nhà, tuy vậy, nó dừng lại khi nghe thấy một tiếng gõ nhẹ ở cửa trước, và sau đó là tiếng lách cách của kim loại và tiếng ken két của dây xích.

Mọi dây thần kinh trên cơ thể Harry như căng lên: nó lôi đũa phép ra, lẩn vào trong bóng tối bên dưới nơi treo những chiếc đầu gia tinh. Cánh cửa mở ra: nó thoáng nhìn thấy một khung cảnh nhỏ của quảng trường bên ngoài, và một bóng người mặc áo chùng len lỏi dần vào phòng lớn, đóng sầm cánh cửa sau lưng. Kẻ xâm nhập đi một bước về phía trước, thì giọng của thầy Moody vang lên, “Severus Snape?” Rồi sau đó đám bụi trong sảnh ồ ạt xông vào kẻ mới đến, giơ cao bàn tay chết chóc của nó.

“Ta không phải là người đã giết cụ, cụ Albus à!” một giọng nói khẽ khàng đáp.

Bùa phép bị phá vỡ: đám bụi lại nổ một lần nữa, làm cho việc nhận dạng người mới đến qua làn khói xám xịt dầy đặc trở nên khó khăn.

Harry chỉ đũa phép vào chính giữa đám bụi đó, hét lên:

“Không được di chuyển!” Nó đã quên mất bức chân dung của bà Black, khi nghe tiếng nó thét lên, chiếc rèm che bức tranh mở ra, và bà ta bắt đầu la hét, “Bọn Máu bùn nhơ nhuốc và rác rưởi làm ô danh ngôi nhà của ta”

Ron và Hermion có mặt ngay tức thì ở trên bậc thang sau lưng Harry, với hai cây đũa phép giương cao như nó, chỉ vào người đàn ông lạ mặt đang đứng thẳng và giơ hai tay lên cao ở dưới sảnh.

“Giữ yên vũ khí của con, ta Remus đây!”

“Ôi ơn trời,” Hermione kêu lên yếu ớt, thay vào đó, cô bé chỉ đũa phép vào bức tranh của bà Black; và với một tiếng nổ ầm, chiếc rèm sột soạt đóng lại, giải thoát mọi người khỏi âm thanh khủng khiếp. Ron cũng hạ thấp chiếc đũa phép, song Harry thì không.

“Hãy chứng minh đi!” Harry gọi lại.

Thầy Lupin bước về phía có ánh đèn, tay vẫn giơ cao với tư thế đầu hàng.

“Tôi là Remus Lupin, người sói, đôi khi được gọi là Moony, một trong bốn người sáng tạo ra tấm bản đồ Đạo Tặc, người đã cưới Nymphadora, vẫn được gọi là Tonks, và tôi cũng là người dạy trò cách gọi một Thần Hộ Mệnh, Harry, dưới dạng một con hươu.”

“Vâng, được rồi,” Harry nói, hạ đũa phép, “nhưng con vẫn phải kiểm tra, phải không?”

“Nói như là một giáo sư phòng chống nghệ thuật Hắc Ám thì ta cho rằng con phải kiểm tra. Ron, Hermione, các con không nên hạ thấp mức phòng vệ quá nhanh như vậy.”

Chúng chạy xuống dưới lầu về phía ông. Bao trùm trong một chiếc áo chùng du hành dày, ông có vẻ kiệt sức, song vẫn rất hài lòng khi thấy chúng.

“Không một dấu hiệu nào của Severus, phải không?” ông hỏi.

“Không hề,” Harry đáp. “Mọi việc ra sao rồi ạ? Mọi người có ổn không ạ?”

“Ổn,” Thầy Lupin trả lời, “nhưng chúng ta đều bị theo dõi. Có hai tên Tử Thần Thực Tử ở bên ngoài, đúng không nào?”

“Bọn con biết”

“Và ta đã phải Độn Thổ cực kì khéo léo trên bậc trên cùng ngoài cửa chính để chắc chắn là chúng không nhìn thấy ta. Chúng không thể biết các con đang ở đây và ta tin rằng chúng còn nhiều thủ hạ ngoài kia; chúng đang sục sạo mọi cầu nối với con, Harry. Hãy xuống lầu nào, ta còn rất nhiều điều muốn nói với con, và ta muốn biết điều gì đã xảy ra sau khi mấy đứa rời khỏi trang trại Hang Sóc.”

Họ đi xuống căn bếp, và Hermione yểm bùa vào vỉ lò, một ngọn lửa bùng lên tức thì: nó tạo ra một hình ảnh ấm áp trên mảng tường đá giản dị và hắt sáng lên chiếc bàn gỗ dài. Thầy Lupin kéo ra vài chai bia bơ từ chiếc áo du hành xỉn màu và cả bọn ngồi xuống.

“Ta đã ở đây từ ba ngày trước, nhưng ta còn phải cắt đuôi tên Tử Thần Thực Tử bám theo ta,” Thầy Lupin nói, “Vậy, các con đến thẳng nơi đây ngay sau lễ cưới à?”

“Không ạ,” Harry nói, “sau khi bọn con gặp phải hai tên Tử Thần Thực Tử ở một quán cà phê trên đường Tottenham Court.”

Thầy Lupin làm đổ phần lớn bia bơ xuống người

“Cái gì?”

Bọn nó giải thích điều gì đã xảy ra; và khi chúng nói xong, thầy Lupin trông có vẻ kinh hoàng.

“Nhưng làm thế nào bọn chúng tìm ra nhanh như vậy? Không thể nào tìm ra được ai đã Độn Thổ, trừ phi ta chụp lấy họ ngay khi họ biến mất.”

“Và cũng không thể nào có chuyện bọn chúng chỉ tình cờ dạo chơi ở Tottenham vào lúc đó, phải không ạ?” Harry nói.

“Chúng con tự hỏi,” Hermione ngập ngừng, “Harry còn tiếp tục mang theo bùa Truy Nguyên bên mình hay không?”

“Không thể,” Thầy Lupin đáp. Ron phấn khởi ra mặt, còn Harry thì cảm thấy nó được giải toả rất nhiều. “Loại trừ các khả năng khác, bọn chúng chắc hẳn phải biết Harry đang ở đây nếu như con còn mang vết tích đó, phải chứ? Nhưng ta vẫn không hiểu nổi làm thế nào chúng có thể lần ra các con ở đường Tottenham Court, thật là đáng lo, vô cùng đáng lo.”

Nhìn ông trông thật bối rối, nhưng với những điều Harry nhận thấy, thì câu hỏi đó có thể để sau.

“Thầy hãy kể cho bọn con những gì xảy ra sau khi bọn con rời đi, chúng con chẳng nhận được gì từ lúc ba của Ron nhắn rằng gia đình vẫn bình an.”

“Được thôi, Kingsley đã cứu chúng ta,” Thầy Lupin trả lời. “Nhờ mật báo của chú ấy mà phần lớn khách mời của chúng ta đã kịp thời Độn Thổ trước khi chúng đến nơi.”

“Bọn chúng là người của Bộ hay là Tử Thần Thực Tử vậy?”

“Cả hai, nhưng với chung âm mưu và mục đích, bây giờ chúng là một,” Thầy Lupin buồn rầu. “Có khoảng một tá tên, nhưng chúng không biết con có ở đó, Harry à. Anh Arthur có nghe nói là chúng đã thử tra tấn ông Scrimgeour để biết được nơi ở của con, trước khi kết kiễu ông ấy; nếu đây là sự thật, thì hẳn ông ấy đã không hé lộ một lời về con đâu.”

Harry nhìn Ron và Hermione; chúng biểu lộ một sự sửng sốt trộn lẫn với biết ơn y như nó cảm thấy. Nó chưa bao giờ yêu thích ông Scrimgeour, nhưng hành động quả cảm cuối cùng của người đàn ông ấy đã bảo vệ mạng sống của Harry.

“Bọn Tử Thần Thực Tử sục sạo trang trại Hang Sóc từ trên xuống dưới – và chúng tra hỏi chúng ta hàng giờ. Chúng cố hết sức để tìm thông tin về con, Harry à, nhưng dĩ nhiên là không ai ngoài Hội biết được là con ở đây, Harry.

“Cùng lúc chúng phá vỡ đám cưới, thêm nhiều Tử Thần Thực Tử nữa được phái đi đến mọi ngôi nhà liên quan đến Hội trong cả nước. Không có ai chết đâu,” ông nhanh chóng thêm vào, chặn trước câu hỏi, “nhưng chúng cực kì hung bạo. Chúng đốt nhà của Dedalus Diggle, tất nhiên là ông ấy không còn ở đó, và chúng dùng lời nguyền Tra Tấn với gia đình cô Tonks. Một lần nữa, chỉ là để tìm ra con đã đi đâu sau khi đến thăm họ. Họ ổn cả – còn run rẩy, hiển nhiên, nhưng mà vẫn ổn.”

“Và chúng đã vượt qua được những lời nguyền được bảo vệ ấy ư?”

Harry hỏi, hồi tưởng lại hiệu quả của những lời nguyền vào cái đêm nó đâm vào khu vườn nhà Tonks.

“Con cũng phải nhận ra chứ, Harry, rằng bọn tử thần thực tử đã có được toàn bộ Bộ Pháp Thuật về phe chúng,” Thầy Lupin trả lời. “Chúng đã có quyền thực hiện bất kì lời nguyền chết chóc nào mà không sợ bị nhận dạng hay bắt giữ. Chúng đã xâm nhập được vào mọi bùa phép bảo hộ mà chúng ta đã yểm để chống lại chúng, và khi vào được bên trong, chúng chắc chắn là không giấu giếm gì về những nơi chúng sẽ đến.”

“Và chúng cũng không hề bận tâm gửi lời xin lỗi cho những vụ tra tấn chỉ để tìm ra nơi ở của Harry hay sao?” Hermion giận dữ, trong giọng nói của cô bé có vẻ ghê tởm.

“Ừ thì,” Thầy Lupin đáp, do dự khi lôi ra một tờ Nhật Báo Tiên Tri bị gấp lại.

“Đây,” ông nói, đẩy tờ báo về phía Harry, “đằng nào con cũng biết vậy thôi. Đó là cái cớ để chúng săn đuổi con.”

Harry vuốt phẳng tờ báo. Một bức hình to tổ chảng của chính khuôn mặt nó lấp đầy trang nhất. Nó đọc tiêu đề ở trên:

BỊ TRUY NÃ VÌ NGHI VẤN LIÊN QUAN TỚI CÁI CHẾT CỦA ALBUS DUMBLEDORE

Ron và Hermione gầm lên giận dữ, nhưng Harry chỉ im lặng. Nó đẩy tờ báo ra xa; nó không muốn đọc nữa: Nó thừa biết họ sẽ nói gì. Khi cụ chết ở trên toà tháp, chẳng còn ai ngoài nó biết chính xác ai là kẻ đã giết cụ, và mụ Rita Skeeter hẳn đã nói với toàn thế giới phù thuỷ, rằng ai cũng thấy là Harry đã chạy trốn kể từ sau khi sự việc diễn ra.

“Thầy xin lỗi, Harry,” Thầy Lupin nói.

“Và bọn khốn đó hẳn cũng đã kiểm soát tờ Nhật Báo Tiên Tri, phải không ạ?” Hermione phẫn uất.

Thầy Lupin gật đầu.

“Nhưng hẳn là người ta phải biết chuyện gì đang xảy ra chứ ạ?”

“Vụ lật đổ xảy ra nhẹ nhàng và hầu như âm thầm,” Thầy Lupin nói.

“Thông cáo chính thức về vụ ám sát Scrimgeour chỉ là ông ấy từ chức; ông ấy đã bị thay thế bởi Pius Thicknesse, người đang bị ếm lời nguyền độc đoán.”

“Vậy sao Voldermort không tuyên bố hắn là Bộ trưởng bộ Pháp Thuật luôn đi?” Ron thịnh nộ.

Thầy Lupin cười:

“Hắn đâu cần phải làm thế, Ron. Thực tế, hắn chính là bộ trưởng, nhưng việc gì hắn phải ngồi sau chiếc bàn giấy ở Bộ? Con rối của hắn, Thicknesse, sẽ lo liệu mọi việc thường ngày, để cho Voldemort tự do mở rộng quyền lực pháp thuật của hắn trong Bộ.”

“Đương nhiên là sẽ có nhiều người nhận ra có chuyện gì đó xảy ra: Đã có một sự thay đổi đột ngột trong chính sách của Bộ chỉ trong vài ngày vừa qua, và rất nhiều người đã rỉ tai nhau là Voldemort phải đứng sau vụ việc. Nhưng đó mới là vấn đề: Họ chỉ dám xì xầm. Họ không dám tin bất cứ ai, và khi không biết phải tin vào đâu, họ không dám nói ra sự thật, vì một khi những nghi ngờ ấy là thực thì chính gia đình họ sẽ là đối tượng bị săn đuổi. Đúng vậy, Voldemort đang chơi một ván bài khôn ngoan. Việc công khai bản thân chỉ khuấy động lên sự chống đối: Trò ẩn mình sẽ tạo ra sự lẫn lộn, hoang mang và sợ hãi.”

“Và sự thay đổi đột ngột này trong Bộ,” Harry nói, “bao gồm cả việc cảnh báo cho toàn bộ thế giới Phú thuỷ phải chống lại con, chứ không phải Voldemort?”

“Hiển nhiên một phần là như vậy,” Thầy Lupin tiếp lời, “và đó là một nước bài tối ưu. Giờ đây cụ Dumbledore đã mất, con – Cậu Bé Sống Sót – hẳn phải là biểu tượng và chỗ dựa để phục hồi cho bất cứ thế lực nào chống lại Voldemort. Bằng cách đổ lỗi cho con trong việc giết cụ, Voldemort không chỉ tạo ra một cái giá cho tính mạng của con, mà còn gieo rắc nghi ngờ và sợ hãi về con trong rất nhiều người đáng lẽ phải bảo vệ con. “

“Trong khi đó, Bộ bắt đầu hành động chống lại những người xuất thân từ Muggle.”

Thầy Lupin chỉ vào tờ Nhật báo Tiên Tri.

“Hãy xem trang hai đi.”

Hermione lật trang báo với cái vẻ ghét bỏ y hệt khi cô bé cầm vào cuốn Bí mật của Nghệ Thuật Bóng Tối.

“Đăng kí Gốc-Muggle!” cô bé đọc lớn tiếng. “‘Bộ Pháp Thuật đã thực thi một nghiên cứu về những kẻ vẫn được gọi là có gốc-Muggle để hiểu hơn tại sao họ có thể chiếm hữu những bí mật của ma thuật.

“‘Những nghiên cứu gần đây của Cục Cơ Mật cho hay ma thuật chỉ có thể di truyền huyết thống từ người này qua người khác khi các Pháp sư sinh đẻ. Nếu như không thể chứng minh nguồn gốc tổ tông phù thủy, thì, những cái gọi là phù thủy Muggle hẳn đã hưởng quyền lực phép thuật thông qua trộm cướp hoặc vũ lực.

“‘Bộ đã quyết định vạch rõ những kẻ tiếm đoạt quyền phép ma thuật này, và đến hôm nay đã ra một lời triệu gọi tất cả những kẻ được gọi là có gốc-Muggle phải hiện diện bản thân để được phỏng vấn bởi Uỷ Ban Đăng Kí dân Muggle mới thành lập.’”

“Người ta sẽ không để việc này xảy ra đâu,” Ron kinh hoàng.

“Nó đang xảy ra, Ron à,” Thầy Lupin ân cần. “Những phù thuỷ có gốc Muggle đang bị thu gom ngay khi chúng ta đang nói chuyện ở đây.”

“Nhưng họ làm thế nào có thể “trộm cướp” phép thuật chứ?” Ron nói. “Nó thuộc về trí óc, nếu họ có thể ăn trộm được thì sẽ không thể nào tồn tại một Squib, phải không?”

“Ta biết,” Thầy Lupin đáp. “Tuy nhiên, trừ phi con phải chứng minh rằng con có ít nhất một người họ hàng là pháp sư, con sẽ bị kết tội là chiếm hữu pháp thuật bất hợp pháp, và sẽ phải chịu hình phạt.”

Ron liếc nhìn Hermione, rồi nói, “Vậy nếu phù thủy thuần chủng hoặc lai thề thốt rằng một người có gốc Muggle thuộc về gia đình họ? Con sẽ khai man là Hermione là em họ của con -”

Hermione lồng bàn tay vào tay của Ron và siết chặt.

“Mình cảm ơn, Ron, nhưng mình không thể để cậu -”

“Cậu không có lựa chọn đâu,” Ron kiên quyết, năm chặt lấy tay cô ra. “Mình sẽ dạy cho cậu cây phả hệ nhà mình để cậu có thể trả lời mọi câu hỏi về nó.”

Hermione cười xúc động. “Ron à, khi nào chúng ta còn chạy trốn với Harry Potter, tội phạm bị truy nã số một Anh Quốc, thì mình nghĩ điều đó không quan trọng. Chỉ khi mình về trường thì có thể sẽ khác. Vậy Voldemort có toan tính gì về Hogwarts không ạ?” Cô bé hỏi thầy Lupin.

“Sự có mặt là bắt buộc đối với mọi phù thuỷ và pháp sư tuổi niên thiếu,” ông đáp. “Điều đó vừa được công bố ngày hôm qua. Đó là một sự thay đổi, vì chưa bao giờ điều đó bị ép buộc cả. Tất nhiên là hầu hết phù thuỷ và pháp sư tại Anh Quốc này đều từng theo học tại Hogwarts, và các phụ huynh phù thuỷ có quyền dạy dỗ con cái tại gia hoặc gửi chúng đi học ở ngoại quốc nếu họ muốn. Bằng cách này, Voldemort có thể kiểm soát toàn bộ dân số phù thuỷ từ khi còn niên thiếu. Và cũng là một cách để loại ra những người gốc Muggle, vì học sinh phải đưa ra thân phận dòng máu – tức là chúng phải chứng minh được với Bộ là chúng có gốc gác pháp sư, trước khi được chấp thuận theo học.”

Harry cảm thấy kinh tởm và giận dữ: vào thời điểm này, những phù thuỷ trẻ mười-một-tuổi đang mải mê nghiền ngẫm hàng chồng sách pháp thuật mới toe, không hề biết rằng chúng có lẽ chẳng bao giờ thấy được Hogwarts, thậm chí là cả gia đình chúng nữa.

“Thật…thật…” nó lẩm bẩm, gắng sức để tìm ra một từ mà có thể ngang bằng với nỗi ghê tởm sâu sắc trong lòng nó, nhưng thầy Lupin đã nhẹ nhàng nói,

“Ta biết.”

Ông do dự.

“Ta hiểu nếu như con không thể xác nhận, nhưng Harry à, Hội có cảm tưởng rằng cụ Dumbledore giao cho con một nhiệm vụ.”

“Cụ có giao,” Harry đáp, “Ron và Hermione cũng nằm trong nhiệm vụ ấy và hai bạn ấy phải đi cùng con.”

“Con có thể tiết lộ cho ta nhiệm vụ đó là gì được không?”

Harry nhìn vào khuôn mặt đầy nếp nhăn già trước tuổi, đóng trong một mái tóc dày nhưng đã ngả màu bạc, và ước sao nó có thể trả lời khác đi.

“Con không thể, thầy Remus à, con xin lỗi. Nếu cụ Dumbledore đã không nói cho thầy thì con e rằng con cũng vậy.”

“Ta đã biết là con sẽ nói vậy,” Thầy Lupin nói đầy thất vọng. “Nhưng ta nghĩ ta có thể có hữu ích với các con. Con biết ta như thế nào và những việc ta có thể làm. Ta có thể đi cùng các con để bảo vệ, mà không cần được cho biết chính xác nơi con sẽ đi.”

Harry lưỡng lự. Đó là một lời đề nghị hấp dẫn, cho dù chúng khó có thể giữ kín được nhiệm vụ của mình trước thầy Lupin khi mà ông sát cánh cùng chúng những nơi mà ông không thể tưởng tượng ra.

Hermione, tuy vậy, lại bối rối:

“Vậy còn cô Tonks thì sao?” Cô bé hỏi.

“Cô ấy thì sao?” Lupin trả lời.

“Rõ ràng là,” Hermione nghiêm trang, “hai người đã cưới nhau! Cô ấy sẽ cảm thấy thế nào khi thầy ra đi cùng chúng con?”

“Cô Tonks sẽ được an toàn,” Thầy Lupin đáp, “Cô ấy sẽ ở nhà ba má.”

Có gì đó khác lạ trong giọng điệu của thầy Lupin, nó hoàn toàn lạnh lùng. Cũng có cái gì đó lạ kì trong ý tưởng giấu cô Tonks kín đáo trong nhà cha mẹ cô; cô là một thành viên của Hội, và theo những gì Harry được biết, thì hẳn là phải cô muốn xông pha vào nhiệm vụ.

“Thầy Remus,” Hermione ngập ngừng, “Mọi thứ ổn cả chứ…thầy biết đấy, giữa thầy và…”

“Mọi thứ đều ổn, cảm ơn con,” Thầy Lupin quả quyết.

Mặt Hermione ửng hồng. Lại thêm một giây phút ngắt quãng, hết sức ngượng nghịu và lúng túng, và thầy Lupin nói với một giọng điệu giống như phải gắng sức thừa nhận điều gì khó xử, “Tonks sẽ có một em bé.”

“Ôi mới tuyệt làm sao!” Hermione ré lên.

“Tuyệt!” Ron phấn khích.

“Chúc mừng thầy!” Harry cười.

Thầy Lupin đáp trả bằng một điệu cười giả tạo trông như một cái nhăn nhó nhiều hơn, rồi nói, “Vậy…các con đồng ý với đề nghị của ta chứ? Liệu bộ ba có trở thành bộ tứ được không? Ta không tin là cụ Dumbledore không tán thành việc này. Xét cho cùng cụ đã bổ nhiệm ta làm giáo sư môn Phòng chống Nghệ Thuật Hắc Ám phải không? Và ta phải nói với các con là ta tin các con sẽ đương đầu với tà thuật mà chưa ai trong chúng ta từng gặp hay tưởng tượng đến.”

Ron và Hermione đều chằm chằm nhìn Harry.

“Chỉ – chỉ để cho rõ ràng,” nó nói. “Thầy muốn để cô Tonks ở nhà cô ấy để đi cùng bọn con?”

“Cô ấy sẽ rất an toàn ở đó, họ sẽ chăm sóc cô ấy,” Thầy Lupin đáp. Ông nói với một giọng dứt điểm nghe như là hờ hững: “Harry, ta tin rằng James sẽ muốn ta gắn bó với con.”

“Nhưng,” Harry chậm rãi, “con thì không. Con cũng chắc chắn cha con sẽ muốn biết vì sao thầy không gắn bó với chính con của thầy hơn.”

Khuôn mặt thầy Lupin biến sắc. Nhiệt độ trong phòng hẳn đã giảm tới mười độ. Ron nhìn chăm chăm vào khung cảnh giống như thể nó phải ghi nhớ từng chi tiết, trong khi đôi mắt Hermione


xoay liên tục từ Harry sang thầy Lupin.

“Con không hiểu được đâu,” Thầy Lupin cuối cùng cũng nói.

“Vậy thầy giải thích xem?” Harry chất vấn.

Thầy Lupin như ngậm miệng lại.

“Ta – ta đã thật sai lầm khi cưới Tonks. Ta làm việc đó thây kệ lý trí và đã phải hối tiếc từ lúc đó đến giờ.”

“Con thấy rồi,” Harry lạnh lùng, “và thầy định đá cô ấy và đứa trẻ đi để chạy trốn theo chúng con hay sao?”

Thầy Lupin đứng bật dậy: Chiếc ghế của ông bị bật về phía sau, ông trừng mắt với chúng dữ tợn đến nỗi Harry có thể thấy, lần đầu tiên, bóng ma của loài sói trên gương mặt của ông.

“Con không thể thấy rằng điều gì ta đã làm cho vợ ta và đứa con chưa sinh ra sao? Ta không bao giờ nên lấy cô ấy, không bao giờ! Ta đã biến cô ấy thành một kẻ bị ruồng bỏ!”

Thầy Lupin đá vào chiếc ghế mà ông vừa làm đổ.

“Con chỉ thấy ta trong Hội mà thôi, hoặc dưới sự bao bọc của cụ Dumbledore tại Hogwarts! Con không hề biết cái cách mà thế giới phù thuỷ nhìn nhận những sinh vật như ta! Khi họ biết căn bệnh của ta, họ không bao giờ nói chuyện với ta nữa! Con có hiểu những gì ta đã làm không? “

“Thậm chí gia đình cô ấy cũng ghê tởm hôn nhân của chúng ta, loại cha mẹ gì mong muốn con cái mình cưới một người sói chứ? Và đứa trẻ – đứa trẻ – “

Thầy Lupin vò cả bàn tay lên tóc của mình, trông ông loạn trí hết mức.

“Những người như ta thường không có con! Chúng sẽ giống chúng ta, ta tin chắc là như thế – làm thế nào ta có thể tha thứ cho chính mình, khi ta đã biết mà vẫn liều lĩnh để lại chính thân phận của ta cho một đứa trẻ vô tội? Và nếu, bằng một phép màu nào đó, nó không giống ta, thì có lẽ nó sẽ sống tốt hơn, hàng trăm hàng ngàn lần, nếu như không có một người bố đáng hổ thẹn như ta!”

“Thầy Remus!” Hermione run rẩy, nước mắt đã long lanh trên mắt cô bé. “Thầy đừng nói như vậy. Lẽ nào một đứa trẻ có thể hổ thẹn vì thầy?”

“Ồ mình không biết, Hermione,” Harry giận dữ. “Nhưng nếu là mình, mình sẽ rất xấu hổ về ông ấy!”

Harry không biết vì đâu nó bột phát cơn giận này, nhưng cơn giận ấy đủ làm nó đứng bật dậy, giống thầy Lupin. Thầy Lupin nhìn Harry như thể nó vừa đấm ông.

“Nếu chế độ hiện thời nghĩ rằng phù thủy có gốc-Muggle là tồi tệ,” Harry phẫn nộ, “thì chúng sẽ làm gì với một người sói-lai mà cha của nó là thành viên của Hội? Ba của con đã chết để bảo vệ má con và con, và thầy cho là ông ấy sẽ bảo thầy bỏ rơi con mình và đi du hành cùng con hay sao?”

“Sao – sao con-dám?” Thầy Lupin nói. “Đây không phải là ham muốn của ta – về nguy hiểm hay là vinh quang cho bản thân – sao con có thể ám chỉ -”

“Con nghĩ thầy đã cảm thấy đôi chút liều lĩnh,” Harry lạnh lùng, “Thầy chỉ mong được ăn theo bước của chú Sirius mà thôi!”

“Không, Harry!” Hermione cầu khẩn, nhưng Harry vẫn tiếp tục trừng mắt về khuôn mặt nhợt nhạt của thầy Lupin.

“Con chưa bao giờ tin,” Harry tiếp tục. “Người thầy đã dạy con cách chống lại Giám Ngục – lại là một tên hèn!”

Thầy Lupin vẩy đũa phép nhanh đến mức Harry chỉ vừa kịp chạm vào đũa phép của nó. Một tiếng nổ lớn vang lên và nó cảm thấy mình ngã ngửa về phía sau, như thể bị đấm. Khi nó ngã sầm vào bức tường bếp, và trượt xuống sàn nhà, nó liếc thấy đuôi chiếc áo chùng của thầy Lupin biến mất khỏi cánh cửa.

“Thầy Remus, thầy Remus, quay lại đây!” Hermione gào khóc, nhưng thầy Lupin không trả lời. Một giây sau đó chúng nghe thấy cửa chính đóng sầm lại.

“Harry!” Hermione than khóc. “Sao cậu có thể?”

“Thật dễ dàng,” Harry nói. Nó đứng thẳng dậy, nó cảm thấy đau đớn như thể đầu nó đã dộng vào tường nhà. Nó vẫn thấy giận dữ đến run rẩy thân mình.

“Đừng nhìn tôi như vậy!” nó nạt Hermione.

“Cậu đừng tiếp tục cáu với bạn ấy!” Ron gầm gừ.

“Không, không! Chúng ta không được chống lại nhau!” Hermione lao mình vào giữa hai đứa.

“Cậu không nên nói như thế với thầy Lupin,” Ron nói với Harry.

“Ông ấy tự chuốc lấy thôi,” Harry lạnh lùng nói. Những hình ảnh vỡ nát đang chạy đua trong đầu Harry: chú Sirius ngã vào tấm màn; cụ Dumbledore bị nhấc bổng, đánh gục giữa không khí; một ánh chớp xanh và tiếng má nó van nài lòng nhân từ…

“Cha mẹ,” Harry nói, “không bao giờ được rời bỏ con cái, trừ phi – chỉ trừ phi họ bị buộc phải thế!”

“Harry -” Hermione thổn thức, đưa tay ra an ủi nó, nhưng nó gạt ra và bỏ đi, đôi mắt nó dán vào ngọn lửa mà Hermione đã tạo ra. Nó đã từng nói chuyện với thầy Lupin ở ngay đó, tìm kiếm niềm tin vào ba James, và chính thầy Lupin đã an ủi nó. Giờ đây, khuôn mặt nhợt nhạt đau khổ của ông dường như đang trôi trước mặt nó. Nó cảm thấy một sự dâng trào ăn năn đến phát bệnh. Ron và Hermione đều im lặng, nhưng nó biết rằng hai đứa đang nhìn vào mắt nhau sau lưng nó, giao tiếp trong im lặng.

Nó quay lưng lại và bắt gặp chúng ngoảnh mặt khỏi nhau vội vã. “Mình biết, mình không nên gọi ông ấy là đồ hèn.”

“Đúng, cậu không nên,” Ron nói ngay.

“Nhưng ông ấy hành động như thể ông ấy đúng là một tên hèn!”

“Cũng thế cả thôi…” Hermione ngao ngán.

“Mình biết,” Harry nói, “nhưng nếu điều đó làm cho ông ấy về với cô Tonks, thì cũng đáng đúng không?”

Nó không thể nói nghe khác với một lời biện hộ. Hermion tỏ vẻ thông cảm, trong khi Ron ngập ngừng. Harry nhìn xuống chân, nghĩ về ba nó. Liệu ba James có ủng hộ Harry khi nó tranh cãi với thầy Lupin, hay là ông sẽ giận dữ với việc nó kháng cự lại người bạn cũ của ông?

Căn bếp yên lặng như phản ánh cú sốc của chuyện vừa xảy ra, cùng với sự trách cứ không lời của Ron và Hermione. Tờ Nhật báo Tiên Tri mà thầy Lupin mang tới vẫn nằm trên chiếc bàn. Khuôn mặt của chính Harry ở trang nhất vẫn đang chằm chằm nhìn vào trần nhà. Nó đi qua cái bàn và ngồi xuống, mở tờ báo ra ngẫu nhiên, và vờ như đọc nó. Dù vậy nó vẫn không nắm được một từ, đầu óc nó vẫn tràn ngập cảm xúc từ việc gặp mặt thầy Lupin. Nó chắc chắn là Ron và Hermione đã tiếp tục việc giao tiếp không lời sau tờ báo. Nó lật mạnh sang trang, và cái tên Dumbledore tóm ngay lấy mắt nó. Nó mất đến một hoặc hai giây để hiểu được ý nghĩa của bức hình, mà trong đó là hình ảnh của một gia đình. Bên dưới bức ảnh là dòng chữ: Gia đình Dumbledore, từ trái qua phải: Albus; ông Percival, đang ôm bé Ariana mới sinh; bà Kendra và Aberforth.

Nó bị thu hút ngay lập tức, và xem xét tấm hình kĩ càng. Cha của cụ Dumbledore, ông Percival, là một người đàn ông điển trai với đôi mắt vẫn lấp lánh kể cả trong bức hình cũ nát. Đứa bé gái, Ariana, mới lớn hơn một ổ bánh mỳ một chút, và không có gì đặc biệt. Bà mẹ, Kendra, có một mái tóc đen dài cuốn lại thành một bó cao. Khuôn mặt của bà như được khắc chạm một cách chuẩn mực. Harry liên tưởng đến những người Mỹ da đỏ khi nó quan sát khuôn mặt ngăm đen, vòm má cao, chiếc mũi thẳng được hoà chung tổng thể với một chiếc áo dài lụa cao cổ kiểu xưa. Bé Albus và Aberforth mặc hai chiếc áo khoác vét-tông giống nhau có cổ thêu ren và cùng có kiểu tóc dài ngang vai y hệt. Bé Albus trông già hơn vài tuổi, nhưng thật ra hai cậu bé nhìn rất giống nhau, nhất là cho đến khi mũi của cụ Albus chưa bị bể và cụ chưa đeo mắt kiếng.

Gia đình bé nhỏ nhìn trông thật hạnh phúc và bình thường, cười thanh thản trên trang báo. Cánh tay của bé Ariana vẫy mạnh khỏi khăn tã. Harry nhìn lên trên bức tranh và thấy dòng tít.

Đoạn trích độc quyền từ bài báo sắp ra

TRANG SỬ CUỘC ĐỜI CỦA ALBUS DUMBLEDORE

Bởi Rita Skeeter

Nghĩ rằng bài báo sẽ không làm nó thấy tồi tệ thêm, Harry bắt đầu đọc:

Kiêu căng và tự phụ, Kendra Dumblebore không thể tiếp tục ở vùng Đất-trên-Đồi-Hoang (Mould-on-the-Wold) sau vụ bắt giữ nổi đình đám của chồng bà Percival vào nhà ngục Azkaban. Do đó, bà ta quyết định nhổ rễ ra đình khỏi vùng Đất-trên-đồi-hoang và di chuyển tới thung lũng của Godric, một ngôi làng mà sau đó được nổi danh như là địa danh mà Harry Potter đã thoát khỏi bàn tay tử thần của Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy một cách kỳ quặc.

Giống như vùng Đất-trên-đồi-hoang, thung lũng Godric là nơi cư ngụ của rất nhiều gia đình Phù thủy, và bởi vì Kendra chẳng biết một ai trong số đó, bà ta có thể thoát khỏi sự tọc mạch của dân chúng về tội lỗi của chồng bà ta mà bà đã phải đối mặt ở nơi ở cũ. Bằng việc liên tục khước từ những cử chỉ thân thiện của những người hàng xóm Phù thủy mới, bà ta nhanh chóng đảm bảo rằng gia đình của mình sẽ được bình yên.

“Bà ta đóng sầm cửa ngay trước mặt tôi khi tôi mang cho bả một mẻ bánh vạc,” Bà Bathilda Bagshot run rẩy tường thuật. “Suốt năm đầu tiên họ ở đây tôi chỉ biết bả có hai thằng nhóc. Có lẽ tôi đã không biết bả có một cô bé gái nếu tôi không đưa Plagentines ra ngắm ánh trăng vào mùa đông năm ấy, chỉ ngay sau khi họ đi ra. Bả chỉ dẫn con bé đi vòng quanh bãi cỏ đúng một lần, cầm chặt tay nó, và đưa nó vào. Tôi không biết được phải làm gì nữa.”

Có vẻ là Kendra nghĩ việc dời tới thung lũng Godric là một lựa chọn hay để che giấu bé Ariana mãi mãi, một việc có lẽ bà ta đã dự định hàng năm trời. Và thời điểm đó cũng rất đặc biệt. Cô bé Ariana đã gần bảy tuổi khi bị biến mất khỏi cộng đồng, và bảy tuổi cũng là cái tuổi mà hầu hết chuyên gia đồng ý là ma thuật sẽ bột phát ở trẻ con, nếu có. Không một ai còn sống đã ghi nhớ rằng Ariana đã từng biểu hiện một dấu hiệu nhỏ nhất của khả năng ma thuật. Cũng rõ ràng rằng, Kedra đã quyết định làm cô con gái mình biến mất còn hơn là chịu sự tai tiếng do đã sinh ra một Squib con. Rời khỏi những người họ hàng và bạn bè biết về sự hiện hữu của Ariana, rõ ràng là, làm cho việc cầm tù cô bé dễ dàng hơn. Và đám người ít ỏi biết được sự hiện diện của cô bé, từ nay trở về sau, cũng phải giữ kín bí mật này, bao gồm hai cậu anh trai, mà khi được hỏi, chỉ biết lẩn tránh ngượng ngạo và trả lời bằng câu trả lời đã được má chúng gài sẵn: “Em cháu quá yếu để đi học.”

Kì tới: Albus Dumbledore ở Hogwarts – Cái giá và những yêu sách.

Harry đã lầm, những điều nó vừa đọc chỉ làm nó thấy bệnh hơn. Nó nhìn vào bức ảnh của cái gia đình dường như rất hạnh phúc đó. Điều đó có thật không? Làm thế nào nó khám phá ra được? Nó muốn đến thung lũng Godric, kể cả nếu bà Bathilda không trong tâm trạng thích hợp để nói chuyện với nó: nó vẫn muốn đến nơi mà cả nó lẫn cụ Dumbledore đều đã mất đi những người thân yêu nhất. Trong lúc nó đang hạ thấp tờ báo xuống, để hỏi ý kiến của Ron và Hermione, thì một tiếng động điếc tai vọng ra từ xung quanh khu bếp.

Lần đầu tiên trong ba ngày vừa qua, nó đã quên hẳn về Kreacher. Ý nghĩ đầu tiên hiện ra trong đầu nó chỉ là thầy Lupin đã quay trở lại căn phòng, và trong một khoảnh khắc, nó còn không để ý về cái khối dơ xương vừa biến ra từ hư không bên cạnh chân ghế nó. Nó đứng nhanh dậy khi Kreacher thoát khỏi mọi vướng víu và cúi gằm đâu chào Harry, rền rĩ: “Kreacher đã trở lại với tên trộm Mundungus Fletcher, thưa chủ nhân.”

Mundugus đứng phóc dậy và kéo cây đũa phép ra. Hermione, tuy vậy, nhanh hơn so với lão.

“Expelliarmus!”

Đũa phép của Mundungus bay vút lên cao, và Hermione chộp lấy nó. Với ánh mắt man dại, Mundunges vụt đi về phía cầu thang. Ron ngáng chân lão và lão Mundungus ngã dập xuống sàn đá với một tiếng kêu bị bóp nghẹt.

“Cái gì nào?” lão rống lên, quằn quại trong nỗ lực thoát khỏi vòng tay siết của Ron. “Ta làm gì nào? Gửi một con gia tinh chết tiệt theo ta, bọn bay đang chơi trò gì vậy? Ta làm gì nào? Thả ta, thả ta ra, nếu không thì”

“Lão không ở trong tình trạng thích hợp để đe dọa đâu,” Harry nói. Nó vứt tờ báo sang một bên, đi ngang qua căn phòng chỉ với vài bước chân, nó quỳ xuống cạnh Mundungus, lão đã hết vật lộn và nhìn quanh một cách kinh hoàng. Ron đứng dậy, thở hổn hển, và theo dõi Harry khi nó thong thả chĩa đũa phép vào mũi lão Mundungus. Lão bốc ra một thứ mùi ngai ngái của mồ hôi và xì gà, trong khi mái tóc lão rối tươm và bộ cánh xỉn màu rách rưới.

“Kreacher cáo lỗi vì đã chậm trễ mang tên trộm đến, thưa chủ nhân.” Nó nói the thé.

“Gã Fletcher biết nhiều cách để thoát khỏi bị bắt giữ, hắn có rất nhiều nơi ẩn nấp và kẻ đồng lõa. Tuy vậy, cuối cùng Kreacher cũng tóm được hắn.”

“Ngươi đã làm rất tốt, Kreacher à,” Harry nói, và con gia tinh cúi đầu thật thấp.

“Phải, chúng tôi có vài câu hỏi cho lão,” Harry chất vấn Mundungus, và hắn ngay lập tức nói to:

“Ta hốt hoảng, được chưa? Ta chưa bao giờ muốn bị theo dõi, không muốn xúc phạm cậu đâu, anh bạn trẻ à, nhưng ta chưa bao giờ tự nguyện để chết cho cậu, thế mà Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-chết-tiệt đã lần ra ta, ai cũng có thể bị bắt ngoài kia. Ta phải nói mãi là ta không muốn làm việc đó”

“Với thông tin của lão, không ai trong chúng tôi sẽ Độn Thổ đi đâu,” Hermione phẫn uất.

“Phải, cả một lũ anh hùng trời đánh, phải không? Nhưng ta chưa bao giờ giả bộ là ta mong được tự sát”

“Chúng tôi không thích thú lắm với nguyên do tại sao lão chạy khỏi thầy Mắt-Điên,” Harry nói, dí cây đũa sát chút nữa vào Mundungus, mắt đục ngầu. “Bọn tôi biết thừa lão là một kẻ cặn bã không đáng tin.”

“Vậy thì vì cái quái gì mà ta lại bị săn đuổi bởi gia tinh? Hay là vì mấy cái cốc? Ta không giữ cái nào nữa, hay là cậu có thể có chúng…”

“Cũng không phải vì mấy cái cốc, dù vậy lão khôn ra rồi đấy,” Harry lạnh lùng, “giờ thì im đi và nghe tôi nói.”

Nó cảm thấy tuyệt vời khi được làm việc gì đó, nhất là với một người nó có thể ra lệnh để lấy một ít sự thành thực. Cây đũa phép của Harry ịn vào mặt lão Mundungus gần đến nỗi hai con mắt lão đã dồn hẳn về chính giữa để có thể nhìn thấy nó.

“Khi lão sục sạo căn nhà này để tìm ra mọi thứ giá trị,” Harry bắt đầu, nhưng Mundungus đã ngắt ngay lời nó.

“Sirius chưa bao giờ để ý đến đống vụn đó!”

Có một tiếng động lộp độp của cái gì đó, một vệt sáng của vật bằng đồng mới chùi, một tiếng lanh lảnh vang vọng, và một tiếng rít thống khổ: Kreacher vừa lao tới Mundungus và đánh vào đầu hắn với một cái chảo nấu nước sốt.

“Giữ nó lại, giữ nó lại, nó phải bị nhốt lại!” lão Mundungus thét lên kinh hoàng, co rúm lại khi Kreacher giơ cái chảo nặng đáng sợ lên lần nữa.

“Kreacher, không!” Harry quát.

Cánh tay khẳng khiu của lão gia tinh già khựng lại, chùng đi do sức nặng của cái chảo.

“Có thể thêm lần nữa được không, chủ nhân Harry, cho may ý mà?”

Ron bật cười.

“Chúng ta cần lão ấy tỉnh táo, Kreacher à. Nhưng nếu hắn cần được thuyết phục, ta giao cho ngươi đấy, Kreacher!”

“Cảm ơn chủ nhân rất nhiều,” lão gia tinh cúi đầu một lần nữa, và lão lùi lại với khoảng cách khá gần, với đôi mắt nhợt nhạt vẫn trừng trừng nhìn Mundungus.

“Khi lão lục lọi căn nhà để tìm những thứ giá trị,” Hary nói lại, “lão đã lấy một lô ở cái tủ bếp. Có một cái mặt dây chuyền ở đó.” Miệng của Harry chợt khô khốc, nó có thể cảm thấy sự hồi hộp từ Ron và Hermione. “Lão đã làm gì với nó?”

“Tại sao?” Mundungus thắc mắc. “Nó đáng tiền à?”

“Lão còn giữ nó chứ?” Hermione gào.

“Không đâu,” Ron sắc sảo, “nhìn lão ấy kìa, lão đang tự hỏi tại sao lão không bán nó với giá cao hơn thì có.”

“Cao hơn?” lão nói. “Còn lâu mới được thế…chết tiệt, ta phải bỏ nó đi ấy chứ, phải không? Ta không có lựa chọn.”

“Ý ông là gì?”

“Ta đang bán đồ ở Hẻm Xéo thì mụ ta đến và hỏi ta liệu có bằng chứng nhận gì để được bán các đồ vật ma thuật hay không. Đồ chõ mũi chết tiệt! Mụ ta sẽ phạt ta, nhưng mụ tỏ ra đặc biệt yêu thích với cái vòng và mụ hỏi ta nếu mụ có thể lấy được nó, và để ta thoát lần đó, và tự thấy may mắn.”

“Mụ ta là ai?” Harry nạt.

“Ta không biết, một mụ già nào đó của Bộ.”

Mundungus cân nhắc một lúc, và lòi ra:

“Mụ ta thấp lắm, đeo một cái nơ trên tóc.”

Hắn cau mày và rồi thêm vào, “nhìn như một con cóc vậy.”

Harry làm rơi cây đũa: nó trúng ngay mũi lão Mundungus và bắn ra tia lửa vào lông mày lão, bắt lửa tức khắc.

“Aquamenti!” Hermione hét, và một dòng nước ào ạt nhấn chìm lão Mundungus, đang nghẹt thở và thổi phù phù.

Hary nhìn lên và thấy nỗi kinh hoàng của nó hiện rõ trên khuôn mặt Ron và Hermione. Vết sẹo trên mu bàn tay phải nó tự dưng ngứa ran chẳng rõ vì đâu.

Chương 12: Pháp thuật là quyền lực.

Khi tháng Tám trôi qua, đám cỏ bị bỏ hoang ở quảng trường Grimmauld như khô quắt lại dưới ánh nắng rồi héo rũ xuống và ngả sang màu nâu. Không ai ở quanh căn nhà số mười hai phát hiện ra những cư dân ở bên trong lẫn chính ngôi nhà số mười hai ấy. Những người Muggle sống ở quảng trường Grimmauld từ lâu đã chấp nhận sai lầm buồn cười trong việc đánh số nhà khiến cho số mười một nằm ngay cạnh số mười ba.

Nhưng giờ đây, khu vực này đang thu hút một số du khách, những người có vẻ thấy sự bất thường này rất hấp dẫn. Hiếm có ngày nào lại không có một hoặc hai người viếng thăm quảng trường Grimmauld với mục đích khác ngoài việc dựa vào hàng rào chắn giữa căn nhà số mười một và mười ba, chăm chú nhìn vào phần nối giữa hai căn nhà, ít ra là có vẻ như vậy. Những kẻ rình mò này không bao giờ xuất hiện vào hai ngày liền, tuy nhiên bọn chúng đều giống nhau ở việc đều không ưa thích ăn mặc những quần áo bình thường. Phần lớn người dân Luân Đôn đi qua đã quen thuộc với những kẻ ăn mặc lập dị và rất ít khi chú ý đến chúng, tuy nhiên thỉnh thoảng, một số người cũng nhìn lại, ngạc nhiên tại sao lại có người mặc áo choàng giữa thời tiết nóng nực thế này.

Những kẻ quan sát này có vẻ không có được nhiều sự hài lòng từ những lần theo dõi của chúng. Thỉnh thoảng, một trong số bọn chúng tiến tới phía trước một cách đầy hào hứng, như thể rốt cuộc chúng cũng tìm được điều gì đó thú vị, chỉ để rồi quay lại với bộ mặt đầy thất vọng.

Vào ngày đầu tiên của tháng Chín, số lượng những kẻ ẩn nấp ở quảng trường nhiều hơn bao giờ hết. Nửa tá người mặc áo choàng dài, đứng trong yên lặng và thận trọng, dán chặt mắt vào căn nhà số mười một và mười ba, nhưng điều mà bọn chúng trông chờ vẫn chưa hề xuất hiện. Khi hoàng hôn buông xuống, bất chợt kéo theo cơn mưa rào lạnh lẽo đầu tiên trong tuần, có một khoảnh khắc kỳ lạ khó có thể giải thích được khi chúng dường như thấy một điều gì đó đáng chú ý. Một gã với khuôn mặt nhọn nhăn nhúm đi cùng một tên béo lùn xanh xao vội tiến về phía trước, nhưng chỉ một lát sau, bọn chúng đã trở về tình trạng trước đó, trông mệt mỏi và thất vọng.

Lúc đó, trong căn nhà số mười hai, Harry vừa mới bước vào sảnh nhà. Nó đã gần như đã mất thăng bằng khi nó Độn thổ vào bậc trên cùng ngoài cửa trước, và nó nghĩ rằng bọn Tử Thần Thực Tử đã thoáng thấy cái khuỷu tay của của nó thoáng lộ ra lúc đó. Đóng cánh cửa đằng sau lại một cách cẩn thận, nó cởi cái Áo Khoác Tàng Hình ra, vắt cái áo qua cánh tay, và vội vàng đi qua cái hành lang tăm tối, vượt qua cái cửa dẫn đến tầng hầm, giữ chặt một tờ Nhật báo Tiên tri ăn cắp được trên tay.

Như thường lệ, tiếng thì thầm “Severus Snape” chào đón nó, cơn gió lạnh tràn qua và lưỡi nó bị cuốn lại một lúc.

“Con không hại thầy,” nó nói khi lưỡi được thả ra, rồi nín thở lại khi cái hình bị yếm bùa nổ tung thành bụi. Chờ tới khi tới khoảng giữa đường từ cầu thang tới nhà bếp, ngoài tầm nghe của bà Black và tầm che phủ của đám mây bụi, nó gọi lớn, “Mình có tin tức đây, và các cậu sẽ không thích đâu!”

Căn bếp gần như không thể nhận ra được nữa. Tất cả các bề mặt đều sáng loáng; những cái ấm và chảo làm bằng đồng đều được đánh bóng một màu hồng rực rỡ; cái bàn gỗ lấp lánh ánh sáng; những cái cốc và đĩa dùng trong bữa tối phản chiếu ánh lửa bập bùng cháy; trên đó đặt một cái vạc. Tuy nhiên, không có gì trong căn phòng, lại có thể thay đổi bất ngờ hơn việc con gia tinh đang vội chạy về phía Harry, nó diện một cái khăn tắm màu trắng tuyết, cái tai nó đã được lau sạch và mềm mại tựa như bông, cái mặt dây chuyền của chú Regulus nảy lên nảy xuống trên bộ ngực lép kẹp của nó.

“Xin cậu vui lòng cởi giày ra, cậu chủ Harry, và hãy rửa tay trước khi ăn bữa tối,” Kreacher thốt lên, nó túm lấy cái Áo khoác Tàng hình và vắt lên một cái móc trên tường, bên cạnh một số chiếc áo choàng lỗi thời đã được giặt là cẩn thận.

“Chuyện gì vậy?” Ron hỏi một cách lo lắng. Nó và Hermione đang dọn dẹp một đống ghi chú nguệch ngoạc và những tấm bản đồ vẽ tay nằm lộn xộn ở cái bàn dài ở nhà bếp, nhưng hiện giờ, cả hai đứa đều nhìn vào Harry khi nó sải chân về phía chúng, và ném tờ báo lên đống giấy da bừa bộn.

Một bức tranh lớn vẽ một người đàn ông khá quen thuộc, mũi khoằm, tóc đen đang nhìn chằm chằm vào bọn chúng, nằm bên dưới một dòng tít:

SEVERUS SNAPE ĐƯỢC BỔ NHIỆM LÀM HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG


HOGWARTS

“Không!” Ron và Hermione hét to.

Hermione nhanh tay nhất; cô bé chộp lấy tờ báo và đọc to lên.

“Severus Snape, bậc thầy Độc dược lâu năm ở Trường đào tạo Ma thuật và Phù thuỷ Hogwarts, hôm nay vừa được chỉ định làm hiệu trưởng là sự thay đổi nhân sự quan trọng nhất ở ngôi trường cổ xưa này. Sau đơn xin thôi việc của giáo viên bộ môn Muggle-học, bà Alecto Carrow sẽ đảm nhận công việc này trong khi em trai của bà, Amycus, sẽ giữ vị trí giáo viên của bộ môn Phòng chống Nghệ thuật hắc ám.

“‘Tôi hoan nghênh cơ hội được ủng hộ những giá trị và truyền thống tốt đẹp nhất của các phù thuỷ” “Giống như việc giết người và bịt tai mọi người lại, tớ nghĩ thế! Snape, hiệu trưởng á! Snape trong văn phòng của cụ Dumbledore – Khốn nạn Merlin thật!” cô hét lanh lảnh, khiến Harry và Ron nhảy dựng lên. Cô rời khỏi cái bàn và chạy khỏi phòng, vừa đi vừa nói, “Mình sẽ trở lại sau vài phút!”’

“‘Khốn nạn Merline thật’?” Ron lặp lại, có vẻ thích thú. “Cậu ấy chắc phải khó chịu lắm.” Nó lấy tờ báo và nghiên cứu bài báo viết về Snape.

“Những giáo viên khác sẽ không chấp nhận điều này đâu, cô McGonagall, thầy Flitwick và cô Sprout đều biết sự thật, họ biết cụ Dumbledore đã chết thế nào. Họ sẽ không chấp nhận việc Snape làm hiệu trưởng đâu. Và mấy tên họ Carrows đó là ai thế?”

“Tử Thần Thực Tử!” Harry nói. “Có hình của bọn chúng ở bên trong đấy. Chúng cũng ở trên đỉnh tháp khi Snape giết cụ Dumbledore, và bọn chúng đều là bằng hữu của nhau. Và,” Harry ngồi xuống ghế, nói một cách chua chat, “Mình có thể thấy các giáo viên không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc ở lại. Nếu Bộ và Voldemort đứng sau Snape, thì đó sẽ là sự lựa chọn giữa việc ở lại giảng dạy và một vài năm tù ở Azkaban – và đó là trong trường hợp họ may mắn. Mình cho rằng họ sẽ ở lại để bảo vệ học sinh.”

Kreacher hối hả tiến về phía cái bàn với một chiếc liễn lớn trên tay, và múc súp ra những cái bát sạch sẽ như mới, nó vừa làm vừa huýt sáo.

“Cám ơn Kreacher,” Harry nói, vứt tờ Nhật báo qua một bên để không phải nhìn thấy cái mặt của Snape, “Ừm, ít nhất chúng ta cũng biết hiện giờ Snape ở đâu.”

Nó bắt đầu thử những muỗng súp. Tài nấu nướng của Kreacher đã được cải thiện đáng kể từ khi nó được cho cái mặt dây chuyền của chú Regulus: Hôm nay, món hành Pháp ngon như Harry đã từng được ăn trước kia.

“Vẫn có rất nhiều Tử Thần Thực Tử theo dõi căn nhà này.” Vừa ăn nó vừa nói với Ron, “nhiều hơn bình thường. Có vẻ như chúng đang hy vọng chúng ta sẽ rời khỏi đây với những chiếc rương học sinh và thẳng tiến tới tàu tốc hành Hogwarts.”

Ron liếc nhìn đồng hồ.

“Mình đã nghĩ về việc đó cả ngày nay rồi. Chuyến tàu đã lăn bánh sáu tiếng trước. Lạ thật, bọn mình đã không ở trên chuyến tàu, phải không?”

Trong trí tưởng tượng của mình, Harry có thể thấy cái đầu máy hơi nước đỏ tươi mà nó và Ron đã từng đuổi theo trên không trung, ẩn hiện giữa những cánh đồng và núi đồi, giống như một con sâu đỏ tươi đang bò. Nó chắc chắn rằng Ginny, Neville, và Luna đang ngồi cùng với nhau, có lẽ đang thắc mắc là nó, Ron và Hermione ở đâu, hoặc đang tranh cãi về cách tốt nhất để ngầm phá hoại cái chế độ cai trị mới của Snape.

“Vừa nãy bọn chúng suýt đã nhìn thấy mình quay lại đây,” Harry nói, “Mình hiện hình không tốt ở trên bậc cao nhất, và cái Áo choàng tuột ra khỏi người.”

“Lần nào mình cũng bị thế. Oh, cô ấy kìa!” Ron thêm vào, vươn cổ ra khỏi ghế để thấy Hermione lại đi vào căn bếp. “Và vì tên của Merlin cậu vừa đi làm cái quái quỷ gì vậy?”

“Mình chợt nhớ ra cái này,” Hermione thở hổn hển.

Cô bé đang cầm một bức tranh lớn, và giờ cô bé đang hạ nó xuống sàn trước khi vớ lấy cái túi nhỏ của cô bé từ cái tủ bếp. Mở nó ra, cô bé bắt đầu nhét bức tranh vào, và mặc cho cái sự thật là bức tranh quá lớn để có thể nhét vừa vào cái túi bé xíu ấy, chỉ vài giây sau, bức tranh đã biến mất thật dễ dàng vào sâu trong đáy túi.

“Cụ Phineas Nigellus,” Hermione giải thích khi cô bé quăng cái túi vào cái bàn ở nhà bếp, gây ra một tiếng động loảng xoảng.

“Cái gì cơ?” Ron nói, nhưng Harry đã hiểu. Bức vẽ của cụ Phineas Nigellus Black có khả năng di chuyển giữa bức chân dung ở quảng trường Grimmauld và bức chân dung nằm trong văn phòng hiệu trưởng ở Hogwarts: một căn phòng hình tròn mà không nghi ngờ gì nữa, vào lúc này, Snape đang ngồi đó, trong sự đắc thắng vì được sở hữu bộ sưu tập những đồ vật ma thuật tinh vi làm bằng bạc: cái chậu Tưởng ký bằng đá, cái nón phân loại, thanh kiếm của Gryffindor, trừ phi nó đã được di chuyển đến chỗ khác.

“Snape có thể gửi cụ Phineas Nigellus đến đây để theo dõi căn nhà này,” Hermione giải thích cho Ron khi cô bé quay trở lại chỗ ngồi của mình. “Nhưng hãy để hắn thử đi, tất cả những gì mà cụ Phineas Nigellus có thể nhìn thấy là những gì bên trong cái túi của mình.”

“Cậu suy nghĩ thấu đáo thật!” Ron nói, có vẻ ấn tượng.

“Cám ơn!” Hermione mỉm cười, kéo bát súp về phía mình. “Vậy, Harry, còn chuyện gì khác xảy ra trong hôm nay không?”

“Không có gì!” Harry nói. “Theo dõi lối vào của Bộ Pháp thuật bảy giờ liền. Không có dấu hiệu gì của mụ. Mình nhìn thấy ba cậu. Ông ấy vẫn khoẻ.”

Ron gật đầu khi nghe thấy tin đó. Bọn chúng đã đồng ý rằng, thật quá nguy hiểm nếu cố liên hệ với ông Weasley khi ông đi ra vào Bộ, bởi lẽ ông luôn bị những nhân viên khác của Bộ vây quanh. Tuy nhiên, chúng cũng yên tâm hơn khi nhìn thấy ông, mặc dù trông ông rất căng thẳng và lo âu.

“Ba luôn nói với bọn mình là phần lớn người của Bộ sử dụng mạng Floo để đến nơi làm việc.” Ron nói. “Đó là lý do tại sao chúng ta không thấy mụ Umbridge, mụ ấy không bao giờ đi bộ, mụ nghĩ mụ rất quan trọng.”

“Vậy còn lão phù thuỷ trông rất khôi hài và tay phù thuỷ bé nhỏ mặc bộ áo choàng màu xanh sẫm thì sao?” Hermione hỏi.

“Ồ, họ đến từ Sở Bảo dưỡng Phép thuật.”

“Làm sao cậu biết là lão ta làm việc ở sở Bảo dưỡng Phép thuật?” Hermione hỏi, thìa súp của cô bé treo lơ lửng trong không trung.

“Ba nói rằng tất cả những người ở Sở Bảo dưỡng Phép thuật đều mặc áo choàng xanh da trời sẫm màu.”

“Nhưng cậu chưa bao giờ nói với bọn mình điều đó.”

Hermione thả cái thìa xuống và kéo về phía mình đống ghi chú nguệch ngoạc và bản đồ mà cô bé và Ron đang kiểm tra. Lúc này, Harry bước vào bếp.

“Không có gì ở đây nói về những cái áo choàng màu xanh sẫm cả, không có gì!” Cô bé nói, luống cuống lật các trang sách.

“Ồ, chuyện đó có vấn đề gì không?”

“Ron, tất cả đều quan trọng. Nếu chúng ta đi vào Bộ và không muốn làm lộ bản thân mình, trong khi Bộ chắc chắn là sẽ trông chừng cẩn thận để đề phòng những kẻ đột nhập, thì tất cả những chi tiết nhỏ nhất đều quan trọng cả! Ý mình là, chúng ta đã bàn đi bàn lại rồi, tất cả những cuộc do thám để làm gì cơ chứ, nếu cậu thậm chí còn không buồn nói cho bọn mình…”

“Lạy chúa, Hermione, mình chỉ quên một chi tiết nhỏ nhặt thôi mà”

“Cậu nhận ra rồi à, giờ đây trên cả thế giới này, không có chỗ nào lại nguy hiểm hơn Bộ”

“Mình nghĩ chúng ta nên làm chuyện này ngay ngày mai!” Harry nói.

Hermione ngừng lại, há hốc mồm; Ron thì như bị nghẹn súp.

“Ngày mai?” Hermione nhắc lại. “Cậu nói nghiêm túc đấy chứ?”

“Ừ!” Harry nói. “Mình không nghĩ bọn mình sẽ được chuẩn bị tốt hơn bây giờ, kể cả khi bọn mình sẽ theo dõi lối vào của Bộ thêm một tháng nữa. Chúng ta hoãn lại càng lâu, thì cái mặt dây chuyền sẽ càng xa xôi hơn. Khả năng mụ Umbridge ném nó đi là rất cao; thứ đó đâu có chịu mở ra.”

“Trừ phi,” Ron nói. “Mụ ấy đã tìm được cách mở nó ra và giờ đây mụ ấy đang bị nó chiếm hữu”

“Chuyện đó thì cũng chả thay đổi gì ở mụ ta cả,, mụ vốn đã độc ác sẵn rồi mà!” Harry nhún vai.

Hermione đang mím chặt môi, chìm sâu trong suy nghĩ.

“Chúng ta đã biết mọi điều quan trọng rồi!” Harry tiếp tục, nhắm vào Hermione. “Chúng ta biết bọn họ đã thôi không Độn thổ để ra vào Bộ; Chúng ta biết chỉ những nhân viên quan trọng của bộ mới được nối mạng Floo tới nhà, vì Ron đã nghe thấy hai chuyên viên Bất-khả-ngôn phàn nàn về điều đó. Và chúng ta biết đại khái văn phòng mụ Umbridge nằm ở đâu, bởi lẽ cậu đã nghe được cái gã tóc vàng có râu ấy nói với đồng nghiệp”

“Tôi sẽ lên tầng một, bà Dolores muốn gặp tôi,” Hermione thuật lại ngay lập tức.

“Đúng thế!” Harry nói. “Và chúng ta biết, chúng ta sẽ vào bằng cách sử dụng những đồng tiền tức cười ấy, cũng có thể đó là những đồng xu tròn, chúng là cái quái gì cũng mặc, bởi lẽ mình đã thấy bà phù thuỷ ấy mượn một người bạn”

“Nhưng chúng ta không có!”

“Theo như kế hoạch, thì chúng ta sẽ có!” Harry nói một cách bình tĩnh.

“Mình không biết, Harry à, mình không biết…Còn rất nhiều thứ kinh khủng nữa có thể xảy ra, mà như thế thì quá phụ thuộc vào may rủi…”

“Nếu chúng ta chuẩn bị thêm ba tháng nữa, thì điều cậu vừa nói vẫn đúng,” Harry nói. “Giờ là lúc để hành động.”

Nhìn mặt của Ron và Hermione, nó có thể nói hai đứa rất sợ hãi; nó cũng không tự tin lắm vào bản thân; nhưng nó chắc chắn rằng đã đến lúc để thực hiện kế hoạch.

Chúng đã dành cả tháng trước đó chui dưới tấm áo tàng hình và bí mật theo dõi lối vào Bộ, mà nhờ có ông Weasley Ron đã biết rõ từ hồi còn bé. Chúng đã bám đuôi các nhân viên từ trên đường họ đi vào, nghe lỏm các cuộc đối thoại của họ, và xem xét một cách cẩn thận xem người nào có thể tin cậy được, dựa vào sự xuất hiện của họ, một mình, ở cùng một thời điểm mỗi ngày. Thỉnh thoảng, chúng cũng có cơ hội lấy trộm một tờ Nhật báo Tiên tri từ cặp của một ai đó. Dần dần, chúng đã xây dựng được bản đồ đại cương và những ghi chú, mà giờ đây đang nằm trước mặt Hermione.

“Được rồi!” Ron nói chậm rãi. “Cứ cho rằng chúng ta sẽ đi vào ngày mai đi…Mình cho rằng chỉ cần mình với Harry thôi.”

“Ôi, đừng khơi mào chuyện ấy thêm lần nữa!” Hermione thở dài. “Mình nghĩ chúng ta đã bàn về việc ấy rồi.”

“Việc ấy là việc quanh quẩn chỗ lối vào dưới tấm áo tàng hình, nhưng việc này khác hẳn, Hermione à!” Ron dí ngón tay vào một bản Nhật báo Tiên Tri được xuất bản mười ngày trước. “Cậu ở trong danh sách những người có gốc Muggle, những người không nên bộc lộ bản thân vì sẽ bị tra hỏi!”

“Còn cậu thì được cho là đang thoi thóp vì bệnh đậu Rồng ở trang trại Hang Sóc! Và nếu có ai đó không nên đi, thì đó phải là Harry, cái đầu của cậu ấy trị giá mười ngàn Galleon…”

“Được thôi, mình sẽ ở lại,” Harry nói. “Hãy cho mình biết nếu các cậu tiêu diệt được Voldemort, được chứ?”

Ron và Hermione cười to, lúc này, vết thẹo trên trán Harry bỗng đau đớn. Tay nó đặt ngay lên trán. Nó nhìn thấy đôi mắt Hermione nhỏ dần, và nó cố gắng đánh lạc hướng hành động của mình bằng cách vuốt tóc ra khỏi mắt.

“Ồ, nếu cả ba chúng ta đều đi, chúng ta sẽ phải Độn thổ riêng rẽ.” Ron nói. “Chiếc Áo choàng không đủ để che cả ba chúng ta.”

Cái thẹo của Harry ngày càng đau đớn hơn. Nó đứng dậy. Ngay lập tức, Kreacher hối hả lao đến.

“Cậu chủ chưa ăn hết súp, cậu chủ có thích rau húng hầm không ạ, hay món bánh hạnh nhân của cậu bị vụn quá?”

“Cám ơn, Kreacher, nhưng ta sẽ quay lại trong vài phút nữa – ừm – nhà tắm.”

Nhận thức được Hermione đang nhìn nó một cách đáng ngờ, Harry chạy nhanh qua sảnh và đầu cầu thang đầu tiên, nó lao vào phòng tắm và chốt cửa lại. Rên rỉ vì đau đớn, nó ngồi sụp lên cái chậu đen, cạnh mấy cá vòi nước hình những một con rắn đang há to miệng, rồi nhắm mắt lại…

Nó đang đi trên một khu phố mờ tối mờ. Những ngôi nhà hai bên đường có những cột chống bằng gỗc cao; trông chúng khá hào nhoáng.

Nó đến gần một căn nhà, rồi sau đó nhìn thấy những ngón tay dài nhợt nhạt của mình chạm vào cánh cửa. Nó gõ cửa. Nó cảm giác sự kích động đang trào dâng…

Cửa mở ra. Một người phụ nữ mỉm cười đứng đó. Mặt bà biến sắc khi nhìn vào mặt Harry: sự hài hước biến mất, nhường chỗ cho sự khiếp sợ.

“Ngươi là Gregorovitch?” Một giọng nói lạnh lẽo và cao vút vang lên.

Bà lắc đầu: bà cố gắng đóng cửa lại. Bàn tay trắng bệch giữ chặt cái cửa, ngăn cho nó sập lại…

“Ta muốn gặp Gregorovitch.”

“Er wohnt hier nicht mehr!” Bà hét lên, lắc lắc đầu. “Ông ấy ở đây không sống! Ông ấy ở đây không sống! Tôi không ông ấy biết!”

Không cố gắng chặn cửa nữa, bà bắt đầu chạy xuống cái sảnh tối om, và Harry lướt người đuổi theo bà ta, và những ngón tay dài của nó đã rút đũa phép ra.

“Hắn ta ở đâu?”

“Das weiff ich nicht! Ông ấy đi rồi! Không tôi biết! Không tôi biết!”

Nó đưa tay lên. Người phụ nữ la hét. Hai đứa trẻ nhỏ chạy vào sảnh. Bà cố che cho chúng trong vòng tay mình. Có một tia sáng xanh loé lên –

“Harry! HARRY!”

Harry mở mắt ra; nó đã ngã xuống sàn. Hermione đang gõ cửa lần nữa.

“Harry, mở ra!”

Nó đã hét lên, nó biết điều đó. Nó đứng dậy và mở khoá cửa; Hermione trượt ngã vào bên trong, cô bé cố lấy lại thăng bằng, và nhìn quanh một cách đầy nghi ngờ. Ron ở ngay bên phải cô bé, trông có vẻ bực mình khi nó chỉ đũa phép vào các góc của cái phòng tắm lạnh lẽo.

“Cậu đang làm gì vậy?” Hermione hỏi một cách nghiêm nghị.

“Vậy cậu nghĩ mình đang làm gì?” Harry cố tỏ ra cứng rắn.

“Cậu đang kêu la với cái đầu của mình!” Ron đáp.

“À ừ…Có lẽ mình đang ngủ gật hoặc”

“Harry, đừng lăng mạ đầu óc của bọn mình,” Hermione nói, thở sâu. “Bọn mình biết cái thẹo làm đau cậu lúc ở dưới kia, trông cậu trắng bệch như tờ giấy.”

Harry ngồi xuống cạnh phòng tắm.

“Mình khoẻ thôi. Voldemort đã giết hại một phụ nữ. Giờ này chắc hắn đã giết cả gia đình bà ấy rồi. Và hắn không cần phải làm như vậy. Cũng giống như anh Cedric, họ chỉ ở đó mà thôi…”

“Harry, cậu không được phép để chuyện đó xảy ra!” Hermione nói to, giọng cô bé vang vọng khắp phòng tắm. “Cụ Dumbledore muốn cậu phải sử dụng phép Bế Quan Bí Thuật! Cụ nghĩ rằng sự kết nối ấy rất nguy hiểm – Voldemort có thể sử dụng nó, Harry à! Nhìn hắn hành hạ và giết người thì có gì là tốt đâu, có giúp gì được cho cậu đâu?”

“Bởi vì điều đó có nghĩa là mình biết hắn đang làm gì,” Harry nói.

“Vậy cậu thậm chí sẽ không cố đóng nó lại ư?”

“Hermione, mình không thể. Cậu biết là mình rất tệ cái trò Bế quan Bí thuật ấy, mình không bao giờ thực hiện được nó.”

“Cậu chưa bao giờ thực sự thử cả!” Cô bé phản đối kịch liệt. “Mình không muốn nói điều này – Harry à – Nhưng cậu có thích sự kết nối đặc biệt mối quan hệ hoặc bất kỳ – điều gì -?”

Cô ấp úng trước cái nhìn của nó khi nó đứng dậy.

“Thích nó à?” nó khẽ nói. “Cậu có thích nó không?”

“Mình – không – mình xin lỗi. Mình không có ý…”

“Mình ghét điều đó, mình ghét cái sự thật là hắn có thể ở trong mình, nhưng mình phải theo dõi hắn khi hắn nguy hiểm nhất. Nhưng mình sẽ sử dụng điều đó,”

“Cụ Dumbledore”

“Hãy quên cụ Dumbledore đi. Đây là sự lựa chọn của mình, không phải của ai khác. Mình muốn biết tại sao hắn lại theo đuổi ông Gregorovitch.”

“Ai cơ?”

“Ông ấy là một nhà chế tạo đũa ngoại quốc,” Harry nói. “Ông ấy đã làm ra cái đũa phép của anh Krum và anh Krum cho rằng ông ấy rất xuất sắc!”

“Nhưng theo cậu,” Ron nói. “Voldemort đã có bắt được cụ Ollivander ở nơi nào đó rồi. Nếu hắn đã bắt được một người làm đũa phép rồi, thì hắn cần thêm người nữa để làm gì?”

“Có lẽ là hắn cùng quan điểm với anh Krum, có lẽ hắn nghĩ ông Gregorovitch giỏi hơn…hoặc hắn nghĩ ông ấy sẽ giải thích được cái đũa phép của mình đã làm gì khi hắn truy đuổi mình, vì cụ Ollivander không biết.”

Harry liếc vào cái gương vỡ bụi bặm, rồi nhìn Ron và Hermione, bọn chúng đang trao đổi những cái nhìn hoài nghi sau lưng nó.

“Harry, cậu cứ nói về chuyện cái đũa phép của cậu đã làm gì,” Hermione nói, “nhưng chính cậu đã làm điều đó! Tại sao cậu lại không nhận trách nhiệm cho sức mạnh của chính mình?”

“Bởi vì mình biết đó không phải do mình! Và Voldemort cũng biết thế, Hermione à! Cả mình và hắn đều biết chuyện gì đã thực sự xảy ra!”

Bọn chúng nhìn lẫn nhau; Harry biết là nó vẫn chưa thuyết phục được Hermione, cô bé vẫn còn muốn tranh luận, phản bác lại cả cái giả thuyết về cái đũa phép của nó lẫn việc nó tự để cho mình xâm nhập vào trí óc của Voldemort. Ron bỗng xen vào, giải vây cho nó.

“Bỏ đi,” Ron khuyên cô bé. “Việc này tuỳ vào cậu ấy. Và nếu chúng ta định đột nhập Bộ vào ngày mai, cậu có nghĩ rằng chúng ta cần bàn lại kế hoạch không?”

Miễn cưỡng nghe theo lời của hai người bạn, Hermione tạm gác vấn đề đó lại. Harry chắc chắn rằng cô bé sẽ lại tấn công vào vấn đề này một lần nữa ngay khi có cơ hội. Trong lúc ấy, bọn chúng trở lại khu nhà bếp, nơi Kreacher phục vụ chúng những món hầm và bánh tạc nhân đường.

Tối hôm đó, bọn chúng ngủ rất muộn, sau khi tốn hàng giờ để xem đi xem lại cái kế hoạch, cho đến khi chúng có thể đọc thuộc nó một cách hoàn hảo cho nhau. Harry, ngủ ở phòng ngủ của chú Sirius, giờ đang nằm trên giường với ánh sáng phát ra từ đầu cây đũa phép hắt lên tấm ảnh cũ của ba nó, chú Sirius, thầy Lupin và tên Pettigrew, nó lẩm nhẩm lại kế hoạch trong mười phút. Tuy nhiên, khi nó tắt ánh sáng từ đầu đũa, nó không còn nghĩ về thuốc Đa dịch, về Kẹo Nôn Mửa hoặc cái những cái áo choàng màu xanh sẫm của Sở Bảo dưỡng Phép thuật nữa; nó nghĩ về người chế tạo đũa phép Gregorovitch, làm sao ông ta có thể chạy trốn khi Voldemort truy đuổi ông rất gắt gao.

Màn đêm như vội vã chuyển sang bình minh một cách khó chịu.

“Trông cậu tệ lắm!” Ron nói khi bước vào phòng đánh thức Harry dậy.

“Không lâu nữa đâu,” Harry đáp, vẫn còn ngái ngủ.

Chúng gặp Hermione trên đường xuống nhà bếp. Cô bé đang được Kreacher phục vụ trà và bánh mì nóng. Cô bé đeo trên mặt một vẻ vui buồn thất thường khiến Harry liên tưởng ngay đến những kỳ thi.

“Áo choàng,” Cô bé thì thầm, chào đón sự có mặt của bọn chúng bằng một cái gật đầu lo lắng và tiếp tục kiểm tra cái túi của mình. “Thuốc Đa dịch…Áo choàng Tàng hình…Ngòi nổ Chăng bẫy…Các cậu nên lấy mỗi thứ một đôi để đề phòng…Kẹo Nôn Mửa, Kẹo Chảy Máu Cam, Tai nối dài…”

Bọn chúng ăn nhanh bữa sáng, và bắt đầu đi xuống nhà. Kreacher cúi chào chúng và hứa rằng những cái bánh khoai tây nướng sẽ sẵn sàng khi bọn chúng trở về.

“Tội nghiệp nó!” Ron nói một cách trìu mến. “Và khi cậu nghĩ đến chuyện mình vẫn hay mơ thấy cảnh cắt đầu nó và treo lên tường…”

Bọn chúng bước ra bậc cửa cao nhất với sự thận trọng cao độ. Chúng có thể thấy hai Tử Thần Thực Tử với đôi mắt sưng húp đang chăm chú nhìn ngôi nhà qua cái quảng trường đầy sương mù.

Hermione Độn thổ cùng Ron trước, rồi quay lại đón Harry.

Sau sự tối tăm và nghẹt thở như mọi khi, Harry thấy mình đang đứng trên một con ngõ nhỏ, theo đúng như phần đầu của kế hoạch. Khung cảnh rất hoang vắng, ngoại trừ hai cái thùng lớn; nhân viên đầu tiên của Bộ thường sẽ không xuất hiện trước 8 giờ.

“Vậy thì,” Hermione nói, kiểm tra đồng hồ. “Bà ấy sẽ ở đây trong vòng năm phút nữa. Và khi mình làm yếm bùa Choáng lên bà ấy”

“Hermione, bọn mình biết!” Ron lạnh lùng. “Và mình nghĩ bọn mình phải mở cánh cửa kia trước khi bà ấy đến chứ?”

Hermione ré lên.

“Mình gần như quên mất! Lùi lại đi!”

Cô bé chỉ đũa phép vào cái khoá và cái cửa thoát hiểm nặng nề được trang trí công phu ở bên cạnh chúng, cánh cửa mở ra với một tiếng kẹt. Hành lang tối tăm ở đằng sau cánh cửa sẽ dẫn đến một cái rạp hát trống rỗng, theo như chúng biết từ những lần theo dõi cẩn thận. Hermione đẩy cánh cửa về phía mình, làm cho nó giống như vẫn được đóng kín.

“Và bây giờ, Cô bé nói, quay đầu lại, đối mặt với hai đứa bạn mình trên cái ngõ. “Chúng ta sẽ chui vào tấm áo lần nữa”

“–và chờ đợi.” Ron nói tiếp, ném cái áo qua đầu Hermione giống như phủ một cái chăn lên một cái lồng chim, và đảo mắt nhìn Harry.

Gần một phút sau, có một tiếng bốp nhỏ, và một phù thuỷ bé nhỏ của Bộ với mái tóc màu xám Độn thổ đến, cách chúng vài bước chân, hơi nheo mắt lại vì sự sáng loáng bất chợt: mặt trời vừa mới mọc ra từ đám mây. Tuy thế, bà có quá ít thời gian để thưởng thức sự ấm áp bất ngờ ấy, trước khi lời nguyền Choáng Váng của Hermione lặng lẽ đánh vào ngực bà và bà ngã uỵch xuống.

“Tốt lắm, Hermione!” Ron nói, hiện ra từ cái thùng bên cạnh rạp hát khi Harry cởi tấm áo choàng Tàng hình ra. Chúng cùng khiêng bà phù thuỷ bé nhỏ ấy đến cái hành lang tối tăm dẫn đến hậu trường. Hermione nhổ vài sợi tóc từ đầu bà và cho chúng vào cái bình xám xịt đựng thuốc Đa Dịch mà cô bé lấy ra từ cái túi của mình. Ron đang lục lọi cái ví xách tay của bà phù thuỷ.

“Bà ấy là Mafalda


Hopkirk!” Nó nói, đọc từ một cái thẻ nhỏ để biết được nạn nhân của chúng là nhân viên của Văn Phòng dùng Sai Pháp thuật. “Cậu nên cầm cái này, Hermione à, và đây là những dấu hiệu.”

Nó đưa cho cô bé những đồng xu nhỏ bằng vàng mà nó lấy được từ cái ví, tất cả đều được chạm nổi chữ M.O.M. (viết tắt Bộ Pháp thuật – Minister of Magic – ND)

Hermione uống thuốc Đa dịch, giờ có màu đỏ pha xanh, và chỉ vài giây sau, đứng ở chỗ của cô bé là bản sao của bà Mafalda Hopkirk. Khi cô bé lấy cái kính của bà Mafalda và đeo lên, Harry kiểm tra đồng hồ.

“Chúng ta muộn mất, người của Sở Bảo dưỡng phép thuật sẽ xuất hiện trong vài giây nữa.”

Bọn chúng vội đóng cánh cửa có bà Mafalda thật bên trong; Harry và Ron khoác áo choàng Tàng hình lên người nhưng Hermione thì vẫn đứng đó, chờ đợi. Vài giây sau, cô một tiếng nổ nhẹ khác, và một phù thuỷ bé như con chồn hiện ra trước bọn chúng.

“Ồ, chào chị Mafalda.”

“Xin chào!” Hermione nói bằng giọng run rẩy. “Hôm nay anh thế nào?”

“Thực ra thì không khoẻ lắm,” Phù thuỷ bé nhỏ ấy trả lời, trông hoàn toàn chán nản.

Khi Hermione và phù thuỷ đó tiến đến con đường chính, Harry và Ron rón rén đi theo họ.

“Tôi rất lấy làm tiếc khi nghe tin anh không khoẻ cho lắm!” Hermione nói một cách kiên quyết với tay phù thuỷ đó và ông ta cố trình bày chi tiết những rắc rối của mình; việc rất cần thiết lúc này là ngăn không cho ông ta đi tới con phố. “Đây, hãy ăn một cái kẹo nhé!”

“Er? Ồ, không, cám ơn”

“Tôi mời đấy!” Hermione nhiệt tình nói, lúc lắc cái túi đầy những cái kẹo nôn mửa trước mặt ông ta. Có vẻ e ngại, ông lấy một cái.

Có tác dụng ngay tức thì. Ngay khi cái Kẹo Nôn Mửa chạm vào lưỡi, ông phù thuỷ nhỏ bé bắt đầu nôn mửa dữ dội đến nỗi không hề để ý thấy Hermione đã giật mạnh cả đống tóc từ đầu ông.

“Ôi!” Cô bé nói, khi ông phù thuỷ tiếp tục nôn. “Có lẽ, anh nên nghỉ ngày hôm nay!”

“Không – không!” Ông nghẹn họng lại và lại nôn, cố gắng bước đi dù đã không còn đi thẳng được nữa. “Ngày hôm nay – tôi phải – đi”

“Thật lố bịch!” Hermione cảnh báo. “Anh không thể làm việc trong tình trạng thế này được – Tôi nghĩ anh nên đến Bệnh viện thánh Mungo và họ sẽ chữa trị cho ông!”

Ông phù thuỷ ngã xuống, thử đứng lên bằng cả tứ chi, cố lê về phía đường chính.

“Anh không thể làm việc trong tình trạng thế này được!” Hermione hét lên.

Cuối cùng, ông ta cũng chịu chấp nhận sự thật. Hermione giúp ông đứng lên, và ông ta biến mất, không để lại gì ngoài cái túi mà Ron đã lấy trộm được từ tay khi ông còn mải nôn mửa.

“Ui!” Hermione nói, kéo váy lên để tránh những vũng nôn. “Có lẽ sẽ bớt bừa bộn hơn nếu mình cũng đánh bùa Choáng vào ông ấy.”

“Đúng vậy,” Ron nói, hiện ra dưới tấm áo, tay vẫn cầm cái túi của ông phù thuỷ. “Nhưng mình nghĩ một đống người bất tỉnh thì sẽ gây sự chú ý đấy. Nhưng mà ông ta có vẻ nhiệt tình với công việc nhỉ? Đưa cho bọn mình đống tóc và thuốc nào.”

Hai phút sau, Ron đứng trước mặt chúng, trông nhỏ bé như con chồn, giống hệt ông phù thuỷ kia, và nó mặc cái áo choàng xanh sẫm lấy từ trong túi của ông.

“Thật lạ là ông ấy lại không mặc bộ này ngày hôm nay, phải không, hãy nhìn xem ông ấy muốn làm việc đến thế nào…Dù sao thì, mình là Reg Cattermole, theo như cái nhãn ở đằng sau.”

“Giờ hãy đợi ở đây!” Hermione nói với Harry, nó vẫn ẩn mình dưới cái áo. “Và bọn mình sẽ quay lại với một ít tóc cho cậu.”

Nó đợi mười phút, nhưng với Harry, dường như thời gian còn nhiều hơn thế, lẩn trốn một mình trên con ngõ đầy những vũng nôn mửa, ngay cạnh cái cửa dẫn đến một bà Mafalda bất tỉnh. Cuối cùng, Ron và Hermione cũng xuất hiện lại.

“Bọn mình không biết ông ấy là ai,” Hermione nói, đưa cho Harry vài sợi tóc quăn màu đen. “Nhưng ông ấy đã đi với một cái mũi chảy máu cam tệ hại! Đây, ông ấy khá cao đấy, nên cậu cần một cái áo choàng lớn hơn…”

Cô bé lấy ra một đống áo choàng cũ mà Kreacher đã giặt, Harry uống thuốc và bắt đầu thay đổi.

Khi sự biến hình đau đớn đã xong, nó thấy mình cao hơn một mét tám, và nó có thể nói nó có một cánh tay khá là cơ bắp, thân thể cường tráng. Nó còn có cả râu nữa. Nhét cái áo tàng Hình và kính vào cái áo choàng mới, nó đi cùng hai bạn mình.

“Chúa ơi, đáng sợ thật!” Ron nói, nhìn lên Harry. Harry đã cao hơn nó.

“Hãy lấy một đồng xu của bà Mafalda!” Hermione nói với Harry. “Và đi nào. Gần chin giờ rồi.”

Chúng cùng nhau ra khỏi con ngõ. Sau khi đi gần năm mươi mét dọc con đường đông đúc, có một cái hàng rào đen bóng chắn giữa hai dãy bậc thang, một bên đề QUÝ ÔNG, bên kia đề QUÝ BÀ.

“Lát nữa gặp lại nhé!” Hermione nói một cách lo sợ, và cô bé đi chập chững về phía bậc thang có chữ QUÝ BÀ. Harry và Ron đi cùng với những người đàn ông ăn mặc kỳ quặc đi xuống nơi mà có vẻ là một hầm ngầm dưới nhà vệ sinh công cộng, được lát bằng đá trắng và đen đầy bụi bẩn.

“Xin chào, Reg!” Một phù thuỷ mặc áo choàng xanh sẫm gọi khi ông đi vào một căn phòng bằng cách nhét đồng xu vàng của mình vào cái lỗ trên cửa. “Thật là đáng ghét, phải không? Bắt chúng ta phải đến nơi làm việc bằng cái cách này! Họ đang mong ai sẽ xuất hiện chứ, Harry Potter chắc?”

Ông phù thuỷ đó rống lên cười vì sự hài hước của chính mình. Ron cũng tự ép mình phải cười.

“Đúng vậy,” Nó nói. “Ngu ngốc thật, phải không?”

Rồi nó và Harry tiến đến gần cái phòng.

Bên trái và bên phải Harry bỗng vang lên tiếng dội nước. Nó thụp người xuống và nhòm qua cái lỗ hổng ở đáy phòng, vừa kịp lúc để thấy một đôi chân đi ủng đang trèo lên cái bệ xí bên cạnh. Nó nhìn sang trái và thấy Ron đang nháy mắt với mình.

“Có lẽ chúng ta phải tự dội nước đẩy mình vào?” Ron thì thầm.

“Trông có vẻ thế!’ Harry thì thầm lại, giọng của nó phát ra sâu lắng và lúng túng.

Hai đứa đều đứng dậy. Cảm thấy mình ngu ngốc một cách kỳ lạ, Harry trèo lên cái bệ xí. Nó biết ngay tức khắc mình đã làm đúng; bởi lẽ có vẻ nó đang đứng trên nước, nhưng đôi giày, chân và áo choàng của nó đều vẫn khô ráo. Nó với tay lên, đẩy sợi dây xích ra, và cảnh tiếp theo nó thấy là một cầu trượt ngắn, cách đó không xa hiện ra một cái lò sưởi dẫn đến Bộ Pháp thuật.

Nó đứng dậy một cách vụng về; nó vẫn chưa quen với việc điều khiển cơ thể mình. Cái cửa ra vào có vẻ tối hơn nó nhớ. Trước đây, một vòi phun nước bằng vàng được đặt ở giữa sảnh, tạo nên những đốm sáng mờ mờ ảo ảo trên tường và cái sàn gỗ bóng loáng. Nhưng giờ đây, một cái tượng đen khổng lồ bằng đá đã chiếm lĩnh khung cảnh. Trông thật đáng sợ, cái tác phẩm rất lớn ấy điêu khắc hình ảnh của một nam phù thuỷ và một nữ phù thuỷ đang ngồi trên hai cái ngai vàng được chạm trổ trang hoàng, nhìn xuống những nhân viên của Bộ nhảy ra khỏi cái lò sưởi. Những con chữ to được khắc ở chân đế cái tượng xếp thành từ: PHÉP THUẬT LÀ QUYỀN LỰC*.

Harry bị đá mạnh vào chân từ phía sau. Một phù thuỳ khác vừa bay ra khỏi cái lò sưởi ở sau nó.

“Tránh đường nào, được ch – ồ, xin lỗi, anh Runcorn.”

Rõ ràng là đang kinh hãi, tay phù thuỷ hói ấy bước thật vội vã. Nhìn vẻ bề ngoài, người đàn ông mà Harry đang giả dạng, tên là Runcorn, trông rất đáng sợ.

“Đây!” Một giọng nói vang lên, và nó nhìn quanh để thấy một phù thuỷ bé nhỏ và một phù thuỷ trông giống con chồn ở Sở Bảo Dưỡng Phép thuật đang ra hiệu cho nó từ bên cạnh cái tượng. Harry nhanh chóng tiến về phía họ.

“Cậu vào đây ổn chứ?” Hermione thì thầm với Harry.

“Không, cậu ấy cứ lóng nga lóng ngóng.” Ron nói.

“Ồ, hài hước thật…Quá là kinh khủng, phải không?” Cô bé nói với Harry, nó đang chằm chằm nhìn vào bức tượng. “Cậu có thấy bức tượng đang đứng trên cái gì không?”

Harry nhìn gần hơn và nhận ra thứ nó nghĩ là những chiếc ngai vàng được trang trí chạm trổ thực chất lại là những hình người được chạm khắc: hàng trăm cơ thể trần truồng của nam giới, nữ giới và trẻ con, tất cả đều có khuôn mặt xấu xí và ngu ngốc, đang quằn quại xúm xít bên nhau để đỡ lấy sức nặng của hai phù thuỷ mặc áo choàng rất đẹp.

“Những người Muggle!” Hermione thì thầm. “Ở đúng chỗ của họ. Đi nào!”

Chúng hoà vào dòng người đang di chuyển về phía cái cửa làm bằng vàng ở cuối sảnh, nhìn quanh một cách lén lút, nhưng không có dấu hiệu nào về bóng dáng của mụ Dolores Umbridge. Chúng đi qua cánh cửa và tiến vào một cái phòng nhỏ hơn, nơi từng hàng người dài đang đứng trước hai mươi cái nhà sơn son thiếp vàng, có chức năng như những chiếc thang máy. Bọn chúng cũng vừa vặn đến cái gần nhất khi một giọng nói vang lên, “Cattermole!”

Chúng nhìn quanh: ruột gan Harry quặn lại. Một tên Tử Thần Thực Tử đã chứng kiến cái chết của cụ Dumbledore đang đi về phía chúng. Các nhân viên của Bộ ở cạnh chúng chợt im lặng, đôi mắt của họ cụp xuống; Harry có thể cảm thấy sự sợ hãi đang lan quanh họ. Tên Tử Thần Thực Tử đang quắc mắt, khuôn mặt hung bạo, trái ngược hẳn với cái áo choàng lộng lẫy được thêu chỉ vàng của hắn. Ai đó trong đám đông ở quanh chiếc thang máy chào hắn một cách nịnh bợ: “Xin chào, Yaxley!” Gã Yaxley đó lờ đi.

“Tôi cần một người ở Sở Bảo dưỡng Phép thuật điều chỉnh lại văn phòng của tôi, Cattermole. Nó đang mưa như trút nước bên trong.”

Ron nhìn quanh với hy vọng ai đó sẽ can thiệp vào, nhưng chẳng ai nói gì.

“Mưa…trong văn phòng của anh à. Nó – nó không tốt tí nào, phải không?”

Ron cười một cách lo sợ. Gã Yaxley trừng mắt.

“Mày thấy thật là hài hước, phải không, Cattermole?”

Hai phù thuỷ vội rời khỏi cái hàng dài đợi thang máy và hối hả tiến tới.

“Không!” said Ron. “Không – dĩ nhiên”

“Mày nhận ra là tao đang xuống tầng dưới để chất vấn vợ mày, phải không Cattermole? Thực sự, tao hơi ngạc nhiên là mày không xuống đó để ở bên cạnh vợ mình, vợ mày vẫn đang chờ đợi. Mày đã bỏ vợ, một việc thật tồi tệ, phải không? Thông minh đấy. Lần sau, mày hãy đảm bảo là sẽ lấy một phù thuỷ thuần chủng nhé.”

Hermione rít lên khiếp sợ. Gã Yaxley nhìn cô bé. Cô bé giả vờ ho một cách yếu ớt và quay đi.

“Tôi – tôi-” Ron lắp bắp.

“Nếu vợ tao bị buộc tội là một tên Máu bùn,” Gã Yaxley nói “- không một con đàn bà nào tao lấy sẽ phạm phải sai lầm rác rưởi đó – và người Lãnh đạo Ban điều hành Pháp luật phù thuỷ cần người làm công việc đó, tao sẽ xếp đó là công việc được ưu tiên hàng đầu, Cattermole à. Mày hiểu chứ?”

“Hiểu,” Ron thì thầm.

“Thế thì hãy chú ý vào, Cattermole, và nếu văn phòng của tao không khô ráo trong vòng một giờ nữa, dòng máu của vợ mày sẽ bị đáng nghi hơn cả bây giờ đấy.”

Cái cửa lưới bằng vàng ở trước họ lách cách mở ra. Với một cái gật đầu và một nụ cười không thoải mái với Harry, người rõ ràng đang tỏ vẻ rất thông cảm với tình cảnh của ông Cattermole, gã Yaxley lướt qua bọn chúng để tiến đến một cái thang máy. Harry, Ron, và Hermione bước vào phòng thang máy khác, nhưng không ai đi theo; như thể họ đều bị choáng trước việc vừa xảy ra. Cánh cửa đóng lại, phát ra một tiếng vang rền, và bắt đầu đi lên.

“Mình phải làm gì đây?” Ron hỏi hai đứa bạn cùng lúc, nó có vẻ xúc động mạnh. “Nếu mình không xuất hiện, thì vợ mình – ý mình là, vợ của ông Cattermole”

“Bọn mình sẽ đi với cậu, chúng ta sẽ đi với nhau” Harry bắt đầu, nhưng Ron đã luống cuống lắc đầu.

“Cậu đừng điên, bọn mình không có nhiều thời gian đâu. Hai cậu hãy đi tìm mụ Umbridge, mình sẽ đi và sắp xếp mọi việc trong văn phòng của tên Yaxley đó – nhưng làm thế nào ngừng trận mưa lại được.”

“Hãy thử bùa Tạm Dừng Mãi Mãi!” Hermione nói ngay. “Nó sẽ làm dừng ngay trận mưa nếu đó là do bùa chú hay lời nguyền; nếu không được, thì có lẽ có điều gì đó không ổn với bùa Khí Quyển, bùa này khó khắc phục lắm, vậy hãy thử bùa Chống Thấm Nước như một giải pháp tạm thời để bảo tài sản của hắn ta”

“Hãy nói lại lần nữa, chậm thôi…” Ron nói, tìm trong túi mình một cái bút lông ngỗng, nhưng vào lúc này, cái thang máy đã lúc lắc dừng lại. Một giọng nữ kỳ quái vang lên: “Tầng Bốn, Cục Sắp Đặt và Điều Khiển Sinh Vật Huyền Bí, cùng với các Phân Ban về Sinh vật, Quái vật và Tâm linh, Văn Phòng Liên Lạc Yêu Tinh, và Văn Phòng Tư Vấn Thú Cưng.” Rồi cái cửa mở ra một lần nữa, hai phù thuỷ và rất nhiều giấy tờ màu tím nhạt bay vào, vỗ cánh quanh cái đèn ở trần thang máy.

“Xin chào, Albert!” Người đàn ông với mái tóc dài rậm rạp nói, cười với Harry. Ông liếc nhìn Ron và Hermione khi cái thang máy lại cọt kẹt đi lên trên; Hermione giờ đây đang thì thầm những chỉ dẫn cho Ron. Ông phù thuỷ đó ngả người về phía Harry, liếc nhìn và nói: “Chuyện của Dirk Cresswell à? Từ Văn Phòng Liên Lạc Yêu Tinh? Tốt đấy, Albert à. Tôi khá là tự tin là sẽ chiếm được công việc của hắn!”

Ông ta nháy mắt. Harry cười đáp trả, hy vọng đó cũng là một cách trả lời. Cái thang máy dừng lại, và cánh cửa lại mở ra một lần nữa.

“Tầng Hai, Cục Thi Hành Luật Phù Thuỷ, bao gồm Văn Phòng Dùng Sai Pháp Thuật, Tổng cục Thần Sáng và Hội đồng quản trị Wizengamot.” Giọng phụ nữ vô hình kỳ quái thông báo.

Harry thấy Hermione khẽ đẩy Ron và nó vội đi ra khỏi cái thang máy, những phù thuỷ khác đi theo, chỉ còn lại Harry và Hermione. Lúc cánh cửa vàng đóng lại, Hermione nói nhanh: “Thực sự, mình nghĩ, mình nên đi cùng cậu ấy. Mình không nghĩ là cậu ấy biết phải làm gì và nếu cậu ấy bị bắt, tất cả mọi thứ”

“Tầng một, Bộ Pháp thuật và Ban Hỗ trợ.”

Cánh cửa lưới vàng lại trượt sang hai bên và Hermione thở hổn hển. Bốn người đang đứng trước bọn chúng, hai người đang chìm sâu trong cuộc đối thoại: một phù thuỷ trông có vẻ trí thức đang mặc một cái áo choàng màu đen và vàng lộng lẫy, và một mụ phù thuỷ béo lùn, trông như con cóc, đeo một cái nơ bằng nhung trên mái tóc ngắn của mụ và đang giữ giữ chặt cái bìa hồ sơ ở ngực.

Chương 13: Uỷ ban đăng ký phù thuỷ gốc Muggle.

“À, Mafalda!”, mụ Umbridge nói, nhìn Hermione. “Travers gửi cô đến phải không?”

“V–vâng”, Hermione nói bằng giọng the thé.

“Được, cô sẽ làm tốt đấy.” Mụ Umbridge nói với vị pháp sư mặc áo choàng đen và vàng. “Đấy là cách vấn đề đó được giải quyết. Thưa ngài Bộ trưởng, giờ Mafalda đã đến để ghi chép biên bản, chúng tôi có thể bắt đầu ngay lập tức.” Mụ tra trong bìa hồ sơ. “Hôm nay có mười người và một trong số họ là vợ của một nhân viên trong Bộ! Chậc chậc…ngay tại đây, tổng hành dinh của Bộ!” Mụ bước vào thang máy sát bên Hermione, và hai pháp sư đang lắng nghe cuộc nói chuyện của mụ với ông Bộ trưởng cũng thế. “Chúng ta sẽ đi thẳng xuống, Mafalda, cô sẽ thấy mọi thứ mình cần trong phòng xử án. Chào buổi sáng, Albert, anh không ra à?”

“Có chứ, tất nhiên,” Harry nói bằng giọng trầm trầm của Runcorn.

Harry bước ra ngoài. Tấm cửa lưới bằng vàng đóng lại leng keng sau lưng nó. Ngoái vai lại, Harry thấy khuôn mặt lo âu của Hermione dần bị che khuất, một bên cô nàng là một pháp sư cao lêu nghêu, còn ngang vai là cái nơ cột tóc bằng nhung của mụ Umbridge.

“Điều gì khiến anh đến đây vậy, Runcorn?” vị tân Bộ trưởng Pháp thuật hỏi. Mái tóc và chòm râu dài, đen của ông ta đã đốm bạc, cái trán bự chảng nhô ra phía trước như muốn che khuất đôi mắt lấp lánh, làm Harry liên tưởng đến một con cua đang lò dò nhìn ra ngoài từ bên dưới một tảng đá.

“Tôi cần nói nhanh vài lời với,” Harry lưỡng lự trong giây lát, “Arthur Weasley. Có ai đó bảo ông ta ở trên tầng một.”

“À,” Plum Thicknesse nói. “Ông ta đã bị bắt gặp liên lạc với Kẻ bị truy nã nào đó phải không?”

“Không,” Harry đáp, cổ họng khô lại. “Không, không phải thế.”

“Vậy à. Đó chỉ còn là vấn đề thời gian thôi,” Thicknesse nói. “Đối với tôi, những kẻ phản bội dòng dõi cũng tệ hại như lũ Máu bùn. Một ngày tốt lành nhé, Runcorn.”

“Ngài cũng thế, Bộ trưởng.”

Harry nhìn Thicknesse bước ra xa dọc theo hành lang trải thảm dày. Khi ông ta đã mất hút, Harry lôi Áo khoác Tàng hình ra từ cái áo choàng đen nặng chịch của nó, choàng qua người, bắt đầu đi dọc hành lang theo lối ngược lại. Do Runcorn quá cao nên Harry phải khom người xuống để che bàn chân to bè của nó.

Cơn hoảng loạn bỗng cồn cào trong bao tử Harry. Khi đi qua không biết bao nhiêu cánh cửa gỗ sáng lờ mờ, trên mỗi cái đều có một tấm biển nhỏ ghi tên chủ nhân căn phòng và chức vụ, Harry cảm thấy dường như vẻ quyền uy, sự phức tạp và bất khả xâm phạm của Bộ đang đè nặng lên nó, dường như kế hoạch mà nó, Ron và Hermione đã tốn bao công sức dựng lên suốt bốn tuần qua giờ nghe trẻ con một cách nực cười. Chúng đã cố hết sức lọt vào để không bị phát hiện, chúng chưa hề suy nghĩ về việc phải làm gì nếu bị tách riêng ra. Hermione thì đang bị mắc kẹt với mớ biên bản tòa án, chắc cũng phải kéo dài hàng giờ; Ron đang vật lộn với những bùa chú mà Harry biết rằng vượt ngoài khả năng cậu ta, sự tự do của một người phụ nữ đang nằm trong tay Ron, và nó, Harry, đang lang thang ở tầng trên cùng khi biết chắc con mồi của nó vừa mới xuống dưới trong thang máy.

Nó ngừng bước, đứng dựa vào tường, và vắt óc suy nghĩ xem phải làm gì. Sự im lặng đè nặng lên nó: Không hề có tiếng ồn ào nói chuyện hay tiếng bước chân ở nơi đây. Hành lang trải thảm tím lặng tờ như thể đã bị ai đó ếm bùa Ù tai (Muffliato – ND).

Văn phòng mụ ta chỉ ở đâu đây thôi, Harry nghĩ.

Dường như không thể có việc mụ Umbridge giữ trang sức của mụ trong văn phòng, tuy nhiên sẽ thật ngốc nghếch nếu không thử tìm kiếm. Do đó nó lại tiếp tục đi dọc theo hành lang, không thấy ai ngoại trừ một pháp sư cau mày thì thầm chỉ dẫn cho cây bút lông ngỗng lơ lửng trước mặt ông ta viết nguệch ngoạc vào một cuộn giấy da.

Tập trung vào những cái tên trên các cánh cửa, Harry rẽ qua một khúc quanh. Đi được nửa đường dọc hành lang tiếp theo, nó đến một khoảng rộng lớn, nơi cỡ một tá phù thủy đang ngồi theo hàng ở những chiếc bàn nhỏ trông không khác gì những cái bàn học sinh, mặc dù trông chúng bóng láng và không có những nét graffiti nguệch ngoạc. Harry dừng lại xem, vì hiệu ứng của việc họ đang làm rất mê hoặc. Đám người cùng vẫy và xoay đũa phép một cách đồng loạt, và những ô giấy hình vuông bay khắp nơi như những cánh diều hồng. Sau vài giây Harry nhận ra rằng động tác này được lập lại nhịp nhàng, và những tờ giấy đều có cùng hình dạng; sau đó vài giây nữa nó mới biết những gì đang xảy ra là quá trình tạo thành những tập sách mỏng – những tờ giấy vuông chính là những trang sách mà sau khi tập hợp lại, rơi thành từng xấp ngăn nắp bên cạnh các phù thủy.

Harry rón rén lại gần, những nhân viên tuy đang tập trung vào công việc nhưng nó nghi họ đã để ý thấy dấu chân đè lên thảm. Nó rút nhẹ một tập sách hoàn chỉnh trong mớ sách kế bên một bà phù thủy. Nó liền đọc thử bên dưới Áo khoác tàng hình. Trên cái bìa màu hồng là tựa đề màu vàng:

MÁU BÙN

và những Hiểm Họa mang đến

cho xã hội Thuần Chủng yên bình

Bên dưới dòng tựa là hình một một bông hồng bị xiết chặt bởi một nhánh cỏ dại có răng nanh đang cau có, giữa những cánh hoa là một khuôn mặt béo núc đang cười toe toét. Không có tên tác giả trên tập sách, nhưng một lần nữa những vết sẹo trên tay phải nó bỗng ngứa ran. Một phù thủy trẻ kế bên đã xác nhận mối nghi ngờ của nó khi cô ta nói, trong lúc vẫn đang vẫy và xoay đũa thần, “Chẳng lẽ mụ phù thủy già đó tra hỏi những người Máu bùn suốt sao?”

“Cẩn thận đấy,” vị pháp sư kế bên nói, liếc nhìn xung quanh một cách lo lắng; một trang giấy của ông ta trượt xuống sàn nhà.

“Gì cơ, chẳng lẽ bây giờ ngoài con mắt phép ra mụ ta còn có một đôi tai ma thuật nữa à?”

Cô ta liếc nhìn về phía cánh cửa sáng bằng gỗ gụ trước mặt khoảng trống chật kín những người làm sách; Harry nhìn theo, và cơn giận dữ bỗng sôi trào trong lòng nó như một con rắn đang lồng lên. Ở chỗ mà trên cửa của người Muggle thường có một cái lỗ nhỏ là một con mắt to tròn với mống mắt màu xanh sáng được ép chặt vào lớp gỗ – một con mắt quen thuộc đến ngỡ ngàng với những ai từng biết Alastor Moody.

Trong tích tắc Harry quên mất nơi nó đang đứng, và nhiệm vụ nó phải làm: Thậm chí nó cũng quên béng là mình đang tàng hình. Nó bước thật mau về phía cánh cửa để xem xét con mắt. Nó không hề động đậy. Nó nhìn chằm chằm lên trên, tê liệt. Tấm biển bên dưới cánh cửa đề:

Dolores Umbridge

THỨ TRƯỞNG TỐI CAO CỦA BỘ PHÁP THUẬT

Bên dưới nữa là một tấm biển mới hơn:

CHỦ TỊCH UỶ BAN ĐĂNG KÝ PHÙ THUỶ GỐC MUGGLE

Harry quay lại phía những người làm sách: Mặc dù họ đang chăm chú làm việc, nó chắc rằng họ sẽ để ý nếu cửa một căn phòng trống bỗng dưng mở ra trước mặt họ. Do đó nó rút trong túi ra một vật kì quặc có những cái chân vung vẩy,


và một cái sừng hình củ bằng cao su làm thân. Nó đặt cái Ngòi nổ Chăng bẫy (Decoy Detonator) lên sàn nhà.

Ngay lập tức cái Ngòi nổ chạy vụt qua chân của những phù thủy và pháp sư trước mặt Harry. Sau đó một lát, trong lúc Harry đang đứng đợi với bàn tay để sẵn trên nắm đấm cửa, một tiếng nổ lớn vang lên, từ góc nào đó một luồng khói cay xè cuồn cuộn dâng cao. Cô phù thủy trẻ ở hàng đầu hét lớn: Những tờ giấy hồng bay khắp nơi trong khi cô ta và người bạn nhảy cẫng lên, nhìn quanh tìm nguồn gốc của vụ nổ. Harry vặn tay nắm cửa, bước vào phòng của mụ Umbridge và đóng cửa lại.

Nó có cảm giác như vừa trở lại quá khứ. Nơi đây trông giống y chang văn phòng của mụ ta ở Hogwarts: những tấm vải viền ren, khăn lót và hoa khô tràn ngập khắp nơi. Những bức tường treo những chiếc đĩa trang trí như thuở nào, trên mỗi cái là hình một bé mèo con mang ruy băng màu mè, trông đã ngả màu, nô đùa nhảy nhót vô tư với một sự xinh xắn phát bệnh.Trên bàn trải một tấm khăn hoa hòe viền ren. Đằng sau con mắt của Mắt–điên có một dụng cụ trông như kính viễn vọng giúp mụ dò xét những người bên ngoài. Harry nhìn vào cái kính và thấy họ đang tụ tập xung quanh cái Ngòi nổ chăng bẫy. Nó giật mạnh cái kính ra khỏi cánh cửa, để lại một lỗ hổng, lấy con mắt ra khỏi kính và bỏ vào túi. Sau đó nó quay lại đối diện căn phòng lần nữa, giơ đũa phép lên, thì thầm: “Accio mề đay”.

Không có gì xảy ra, nhưng nó cũng không mong đợi điều gì xảy ra; chắc chắn mụ Umbridge đã biết tất cả những thứ bùa yểm và thần chú bảo vệ. Do đó nó vội đến đằng sau cái bàn của mụ, mở tất cả các ngăn kéo. Nó chỉ thấy bút lông ngỗng, những cuốn sổ ghi chép và những cuộn băng ma thuật; những cái kẹp giấy bị yểm bùa cuộn lại như con rắn đã bị đập trở lại; một một cái hộp nhỏ cầu kì có viền ren đầy những nơ kẹp tóc, nhưng không hề có dấu hiệu của chiếc mề đay.

Có một tủ hồ sơ đằng sau cái bàn: Harry nhào đến khám xét nó. Giống như cái tủ của thầy giám thị Filch ở Hogwarts, nó đầy những xấp tài liệu, mỗi cái đều được dán nhãn ghi tên. Đến khi dò tới ngăn kéo dưới cùng mới có một thứ làm Harry quên đi việc tìm kiếm: hồ sơ của ông Weasley.

Nó liền kéo ra đọc.

Arthur Weasley

Nguồn gốc: Thuần chủng, nhưng có tư tưởng ủng hộ Muggle không thể chấp nhận. Thành viên Hội Phượng hoàng.

Gia đình Vợ (thuần chủng), bảy con, hai đứa nhỏ nhất đang học tại Hogwarts. Ghi chú: con trai út hiện ở nhà, bệnh nặng, Thanh tra Bộ đã xác nhận.

Tình trạng an ninh: BỊ THEO DÕI. Mọi hành vi đều bị giám sát. Rất có khả năng Kẻ bị truy nã số Một sẽ liên lạc (đã ở với gia đình Weasley trước đây)

“Kẻ bị truy nã số Một”, Harry lẩm bẩm khi nó đặt hồ sơ ông Weasley lại chỗ cũ và đóng ngăn kéo lại. Nó có thể đoán đó là ai, và điều này đã được xác nhận: khi nó đứng dậy, liếc nhìn khắp phòng để tìm những chỗ ẩn giấu khác thì bắt gặp một tấm áp phích hình chính nó trên tường, với dòng chữ “Kẻ bị truy nã số Một” trước ngực. Một ghi chú nhỏ màu hồng đính kèm có hình con mèo ở phía góc. Harry lại gần đọc thì thấy mụ Umbridge đã viết: “Phải bị trừng phạt”.

Tức giận hơn bao giờ hết, nó đi dò tìm dưới đáy những cái bình và giỏ hoa khô, nhưng không hề ngạc nhiên tí nào rằng chiếc mề đay không ở đó. Nó nhìn quét khắp phòng lần cuối, tim bỗng nảy lên. Cụ Dumbledore đang liếc nhìn nó từ một cái gương hình chữ nhật dựng trên kệ sách kế bên bàn.

Harry chạy ngang phòng đến vồ lấy vật kia, lúc ấy nó mới nhận ra đó không phải là một chiếc gương. Cụ Dumbledore đang mỉm cười đăm chiêu từ trang bìa của cuốn sách bóng loáng. Harry đã không nhận ra ngay nét chữ màu xanh uốn lượn quanh cái nón của cụ – Cuộc đời và Sự dối trá của Albus Dumbledore – cũng như dòng chữ nhỏ hơn quanh ngực cụ: “Rita Skeeter – tác giả từng thành công vang dội với cuốn Armando Dippet: Vị hiệu trưởng hay Tên khờ?”

Harry mở đại một trang bất kì và thấy một tấm ảnh chiếm trọn trang ấy có hình hai cậu thiếu niên đang cười rũ rượi, tay khoác vai nhau. Dumbledore, lúc bấy giờ tóc dài đến khuỷu tay, để một hàng râu nhỏ nhắc Harry nhớ đến hàng râu trên cằm Krum từng làm Ron khó chịu. Cậu thiếu niên đang cười phá lên thích thú bên cạnh Dumbledore nhìn cụ với cái nhìn hân hoan dữ dội. Mái tóc vàng óng của cậu ta kết thành những lọn xoăn dài đến vai. Harry thắc mắc không biết đó có phải là ông Doge hồi còn trẻ hay không, nhưng trước khi nó kịp xem dòng ghi chú thì bỗng cửa phòng mở ra.

Nếu Thicknesse không ngoái lại phía sau lại khi mở cửa thì Harry đã không có đủ thời gian để kéo Áo khoác Tàng hình lên che người. Tuy nhiên nó nghĩ lão Thicknesse đã thoáng thấy cử động của nó, vì trong khoảnh khắc ông ta đứng yên, liếc nhìn tò mò vào nơi mà Harry vừa biến mất. Có lẽ cho rằng cái mà mình vừa nhìn thấy là Dumbledore đang gãi mũi trên bìa sách – vì Harry đã nhanh chóng để nó lại trên kệ – cuối cùng Thicknesse đi đến bên cái bàn và chỉ đũa thần vào cây bút lông ngỗng đang để sẵn trong lọ mực. Nó nhảy ra ngoài, hí hoáy viết lại mẩu tin nhắn cho mụ Umbridge. Từ từ chậm rãi, hầu như không dám thở, Harry bước ra ngoài căn phòng.

Những người làm sách vẫn đang vây quanh những gì còn sót lại của cái Ngòi nổ chăng bẫy. Nó vẫn tiếp tục rúc lên yếu ớt khi đang bốc khói. Harry vội lao ra ngoài hành lang, nó nghe một phù thủy trẻ nói: “Tôi dám cá thứ này lẻn ra đây từ Phòng thí nghiệm bùa chú,họ thật bất cẩn, còn nhớ con vịt chứa độcchứ?”

Chạy nhanh về phía thang máy, Harry suy tính những việc nó nên làm. Chiếc mề đay có vẻ như không ở trong Bộ, và không thể ếm mụ Umbridge khai ra nơi cất giấu khi mà mụ đang ngồi trong phòng xửán đông nghẹt người. Ưu tiên hiện nay của chúng là phải rời khỏi Bộ trước khi bị phát hiện, và thử lại vào một dịp khác.Việc đầu tiên nó phải làm là đi tìm Ron, sau đó tìm cách giải thoát Hermione khỏi phòng xử án.

Thang máy trống không khi dừng trước mặt Harry. Nó nhảy vào, cởi Áo tàng hình ra khi thang máy đi xuống. Trước vui mừng kinh khủng của nó, Ron bước vào, khi thang máy tạm dừng ở tầng hai, người ướt nhẹp, đôi mắt đờ đẫn.

“Ch–chào buổi sáng,” nó lắp bắp với Harry khi thang máy bắt đầu chuyển động.

“Ron, mình, Harry đây!”

“Harry! Quỷ thần ơi, mình quên béng trông cậu thế nào rồi – sao Hermione không đi cùng cậu?”

“Cậu ấy phải xuống tòa án với mụ Umbridge, không thể từ chối được, và ––”

Trước khi Harry kịp dứt lời thì thang máy dừng lại một lần nữa. Cửa mở ra và ông Weasley bước vào, đang nói chuyện với một bà phù thủy lớn tuổi hơn. Tóc bà này chải cao đến nỗi trông như một cái tổ kiến.

“…tôi khá hiểu chị đang nói gì, Wakanda, nhưng e là tôi không thể đứng về phe ––”

Ông Weasley sững lại khi thấy Harry. Thật lạ khi thấy ông ấy nhìn nó với sự khó chịu như vậy. Cửa thang máy đóng lại và bốn người họ đi xuống lần nữa.

“Ồ, chào Reg,” ông Weasley nói, nhìn vào cái áo chùng ướt đẫm đang rỏ nước của Ron. “Hôm nay vợ anh bị thẩm tra phải không? Ừm…chuyện gì xảy ra với anh vậy? Sao anh ướt thế?”

“Phòng Yaxley có mưa,” Ron nói. Cậu ấy nhìn qua vai ông Weasley, và Harry chắc rằng cậu ta sợ ông ấy sẽ nhận ra nếu hai cha con nhìn thẳng vào mắt nhau. “Tôi không giải quyết được nên họ bảo tôi đi kêu Bernie – Pillsworth, hình như họ nói”

“À, dạo này có rất nhiều văn phòng bị mưa,” ông Weasley nói. “Anh thử dùng Rút đi Thần tốc chưa? Nó hiệu nghiệm với Bletchley đấy.”

“Rút lui Thần tốc?” Ron thì thầm. “Chưa, tôi chưa thử. Cám ơn b…– ý tôi là cám ơn, Arthur.”

Cửa thang máy mở ra; bà phù thủy lớn tuổi với mái tóc như tổ kiến bước ra ngoài, Ron cũng đã lao ra. Harry định ra theo nhưng lối đi bị chặn lại khi Percy Weasley xông vào thang máy, chúi mũi vào xấp giấy mà anh ta đang đọc.

Mãi đến khi cánh cửa leng keng đóng lại Percy mới nhận ra anh ta đang ở trong thang máy cùng ba mình. Anh ta ngước lên, trông thấy ông Weasley, mặt đỏ bừng, rời thang máy ngay lần tiếp theo nó mở cửa. Harry tính bước ra ngoài nhưng lần này nó bị chặn lại bởi cánh tay của ông Weasley.

“Đợi chút đã, Runcorn.”

Cửa thang máy đóng lại và khi họ đi xuống một tầng nữa, ông Weasley nói, “Nghe nói anh có thông tin về Dirk Cresswell.”

Harry có cảm giác cơn giận của ông Weasley không kém đi từ lúc chạm trán chớp nhoáng với Percy. Nó quyết định nên giả đò là tốt nhất.

“Gì cơ?” nó nói.

“Đừng giả vờ, Runcorn,” ông Weasley nói một cách giận dữ. “Anh đang theo dõi người phù thuỷ làm giả gia phả đấy đúng không?”

“Tôi – nếu tôi làm thế thì sao?” Harry nói.

“Dirk Cresswell là một phù thủy thuần chủng gấp mười lần mày đấy.” Ông Weasley khe khẽ gầm gừ, khi thang máy xuống thấp hơn nữa. “Và nếu anh ấy sống sót khỏi Azkaban, mày sẽ phải trả lời anh ta, đó là chưa nói đến vợ con và bạn bè của anh ta”

“Arthur,” Harry ngắt lời, “anh có biết là anh đang bị theo dõi không?”

“Đó là một lời đe dọa ư, Runcorn?” ông Weasley nói lớn.

“Không,” Harry nói, “đó là sự thật! Họ đang theo dõi từng cử chỉ của anh–”

Cửa thang máy lại mở. Họ đã đến hành lang Vành Tai. Ông Weasley nhìn Harry đầy khinh miệt và bước ra khỏi thang máy. Harry đứng đó, khẽ run lên. Nó ước rằng mình đã giả dạng người khác ngoài Runcorn…Cửa thang máy leng keng đóng lại.

Harry lấy Áo tàng hình ra khoác lên người. Nó sẽ cố tự mình giải thoát Hermione khi Ron đang xử lí căn phòng có mưa. Khi cửa mở, nó bước ra một hành lang đá lập lòe ánh đuốc hoàn toàn khác với hành lang lát gỗ trải thảm phía trên. Trong khi bước đi Harry khẽ rùng mình, trông về phía cánh cửa đen đằng xa – lối vào sở Cơ Mật.

Nó tiếp tục lao đi, đích đến không phải là cánh cửa đen mà là lối đi thông với cầu thang xuống phòng xử án – theo trí nhớ của nó nằm ở bên trái. Đầu óc nó vật lộn với những khả năng có thể xảy ra khi xuống dưới: Nó còn một cặp Ngòi nổ chăng bẫy; nhưng có lẽ tốt hơn hết là chỉ gõ cửa bước vào với bộ dạng Runcorn, và xin được nói vài lời với Mafalda chăng? Tất nhiên nó không biết liệu Runcorn có đủ quan trọng để làm việc này hay không, và nếu có được đi nữa, việc Hermione không quay lại sẽ dẫn đến một cuộc tìm kiếm trước khi chúng kịp ra khỏi Bộ…

Mải suy nghĩ, nó không kịp nhận ra ngay cái lạnh buốt khác thường đang luồn qua người, như thể nó đang rơi vào cõi sương mù. Cứ sau mỗi bước đi không khí lại lạnh hơn, cái lạnh tràn xuống cổ họng, xé toang cuống phổi. Rồi nó cảm thấy sự tuyệt vọng xâm chiếm và ngày càng lấn át trong tâm hồn nó…

Lũ giám ngục, nó nghĩ.

Sau khi đến được chân cầu thang, nhìn qua phải, Harry thấy một cảnh tượng thật khủng khiếp. Hành lang tối hù bên ngoài phòng xử án đầy những sinh vật cao lớn, mang áo trùm đầu màu đen, khuôn mặt hoàn toàn bị che khuất, hơi thở rời rạc của chúng là âm thanh độc nhất nơi đây. Những phù thủy xuất thân Muggle bị đưa đến để thẩm tra ngồi lộn xộn trên những chiếc ghế gỗ dài, ai trông cũng sững sờ và run lẩy bẩy. Đa số bọn họ đang lấy tay che mặt, có lẽ là do bản năng, cố gắng tự bảo vệ mình trước những cái miệng háu ăn của bọn Giám ngục. Vài người có người thân đi kèm, những người còn lại ngồi đơn độc. Bọn Giám ngục lượn lờ trước mặt họ, và sự giá lạnh, nỗi tuyệt vọng đè lên Harry như một lời nguyền…

Hãy chống lại, nó nói với bản thân, nhưng nếu gọi thần Hộ mệnh tại đây nó sẽ bị phát hiện ngay lập tức. Vì thế nó cố hết sức bước lên phía trước thật nhẹ nhàng, cứ mỗi bước đi nó lại cảm thấy sự tê liệt tràn ngập khắp đầu óc, nhưng nó cố nghĩ về Hermione và Ron, những người bạn đang cần nó.

Đi qua những sinh vật đen cao lêu nghêu quả là một việc khủng khiếp: Những khuôn mặt không có mắt ẩn bên dưới lớp mặt nạ bỗng nhiên quay lại khi nó băng qua, và nó chắc rằng chúng đã cảm thấy nó, cảm nhận được sự tồn tại của một con người vẫn còn những hy vọng, vẫn còn có thể chống chọi.

Và rồi, giữa sự lặng thinh như tờ ấy, đột ngột một cánh cửa của căn ngục bên trái hành lang bị hất toang ra và những tiếng hét vang dội khắp nơi.

“Không, không, tôi là phù thủy lai, phù thủy lai, tôi nói rồi mà! Cha tôi là phù thủy, đó là sự thật, tìm lại đi, Arkie Alderton, ông ấy là một người thiết kế chổi nổi tiếng, hãy tra lại đi, tôi nói rồi mà – bỏ tay ra, bỏ tay ra ––”

“Đây là lời cảnh cáo cuối cùng,” mụ Umbridge nói bằng một cái giọng nhẹ nhàng tởm lợm, đã được phù phép cho to lên để có thể lấn át tiếng hét tuyệt vọng của người đàn ông. “Nếu ông kháng cự, ông sẽ phải chịu hình phạt Nụ hôn Giám ngục.”

Tiếng hét dần lắng xuống, nhưng tiếng nức nở vẫn vang vọng ra hành lang.

“Đưa hắn đi,” Umbridge nói.

Hai tên Giám ngục xuất hiện ở ngưỡng cửa phòng xử án, bàn tay thối rữa, ghê tởm của chúng nắm chặt cánh tay của vị pháp sư đã choáng váng. Chúng lướt ra ngoài hành lang với ông ta, bóng đen của chúng như muốn nuốt trọn người đàn ông.

“Tiếp theo –– Mary Cattermole,” Umbridge gọi.

Một người phụ nữ nhỏ bé đứng lên, toàn thân run rẩy. Bà ta mặc áo chùng đơn sơ, mái tóc đen búi lại mượt mà thành bó. Khuôn mặt bà ta như không còn giọt máu nào. Khi người phụ nữ bước ngang qua lũ Giám ngục, Harry thấy bà ta run bắn lên.

Nó hành động theo bản năng, không hề dự tính, vì nó không thể để bà ta bước vào căn hầm một mình: Khi cửa vừa bắt đầu khép lại, nó lướt vào trong theo sau người phụ nữ.

Nơi này không giống căn phòng mà lúc trước nó từng bị thẩm vấn vì sử dụng pháp thuật sai qui định. Căn phòng này nhỏ hơn nhiều, mặc dù trần nhà khá cao gây ra cảm giác ghê sợ như là bị giam hãm dưới một cái giếng sâu.

Trong đây có nhiều giám ngục hơn bên ngoài, lan toả không khí gía lạnh khắp nơi; chúng đứng như những tên lính gác không mặt mũi ở góc phòng, cách xa nơi bục cao. Tại đây, sau hàng lan can, mụ Umbridge đang ngồi, với Yaxley ở một bên, Hermione – trông cũng trắng bệch như bà Cattermole – ngồi ở bên kia. Ở phía dưới bục, một con mèo lông xù sáng bàng bạc đang đi thơ thẩn lên xuống liên tục, và Harry nhận ra rằng nó ở đó để bảo vệ những công tố viên khỏi sự tuyệt vọng gây ra bởi lũ giám ngục: Chỉ những người bị khởi tố mới phải chịu đựng, không phải bên công tố.

“Ngồi xuống,” mụ Umbridge nói bằng giọng nhẹ nhàng ngọt xớt.

Bà Cattermole lưỡng lự tiến đến một chiếc ghế ở giữa phòng bên dưới bục cao. Khi bà đã ngồi xuống, những sợi dây xích bay leng keng từ tay ghế ra buộc bà ta lại.

“Bà là Mary Elizabeth Cattermole?” Umbridge hỏi.

Bà Cattermole gật đầu run rẩy.

“Kết hôn với Reginald Cattermole ở Sở Bảo Trì pháp thuật?”

Bà Cattermole bật khóc nức nở.

“Không biết ông ấy đâu rồi, lẽ ra ông ấy phải gặp tôi ở đây chứ!”

Umbridge không thèm để ý.

“Mẹ của Maisie, Ellie và Alfred Cattermole?”

Bà Cattermole nức nở hơn bao giờ hết.

“Chúng nó sợ lắm, chúng nghĩ tôi sẽ không thể trở về ––”

“Thứ lỗi cho,” Yaxley nói to. “Những đứa con của lũ Máu bùn không khiến chúng tao thương cảm đâu.”

Tiếng nức nở của bà Cattermole đã che đi tiếng bước chân của Harry khi nó tiến về phía những bậc thềm dẫn lên trên bục. Khi đi ngang qua chỗ con mèo Hộ mệnh đang tuần tra, nó bỗng cảm thấy một sự thay đổi nhiệt độ: Nơi đây thật ấm cúng và dễ chịu. Nó chắc rằng con mèo là thần Hộ mệnh của mụ Umbridge, và nó sáng rực rỡ vì mụ đang rất hạnh phúc, tại đây, trong môi trường của mụ, duy trì những điều luật xuyên tạc mà mụ đã góp phần viết ra. Hết sức từ từ và cẩn thận, nó len theo bục ra phía sau mụ Umbridge, Yaxley, và Hermione. Nó sợ sẽ làm Hermione nảy lên. Nó nghĩ sẽ ếm bùa Ù tai lên mụ Umbridge và Yaxley, nhưng ngay cả thì thầm thần chú cũng có thể khiến Hermione giật mình. Thế rồi mụ Umbridge lên giọng thẩm tra bà Cattermole, và Harry đã tóm ngay lấy cơ hội.

“Mình đang ở phía sau cậu,” nó khẽ thì thầm vào tai Hermione.

Đúng như nó nghĩ, Hermione đã giật bắn lên, suýt nữa làm lật nhào lọ mực mà cô nàng phải dùng để ghi lại buổi thẩm vấn, nhưng cả mụ Umbridge lẫn Yaxley do đều đang tập trung vào bà Cattermole nên không ai để ý chuyện này.

“Đũa thần của bà đã được giữ lại khi bà đến Bộ hôm nay, bà Cattermole,” Umbridge đang nói. “Tám inch ba phần tư, gỗ anh đào, lông bạch kì mã. Bà có nhận ra chứ?”

Bà Cattermole gật đầu, lấy tay áo lau nước mắt.

“Bà có thể vui lòng cho chúng tôi biết bà đã lấy cây đũa phép này từ phù thủy nào?”

“L–lấy ư?” bà Cattermole nức nở. “Tôi không l–lấy nó từ ai hết. Tôi m–mua nó năm mười một tuổi. Nó–nó–nó đã chọn tôi.”

Bà ta than khóc thảm thiết hơn bao giờ hết.

Umbridge cười nhẹ nhàng, yểu điệu khiến cho Harry muốn tấn công mụ ngay. Mụ cúi lên phía lan can để quan sát nạn nhân rõ hơn, và có cái gì đó bằng vàng cũng lắc lư theo, đu đưa về phía trước: cái mề đay.

Hermione cũng nhìn thấy; cô bé khẽ rít lên, nhưng Umbridge và Yaxley, còn đang mải chăm chú vào con mồi, không nghe thấy gì khác.

“Không,” Umbridge nói, “không, tôi không nghĩ thế, bà Cattermole. Đũa phép chỉ chọn phù thủy. Bà không phải là phù thủy. Tại đây tôi có tờ khai của bà này – Maflada, đưa cho tôi.”

Umbridge chìa tay ra: Lúc ấy trông mụ giống một con cóc đến nỗi Harry khá là ngạc nhiên khi không thấy màng da giữa những ngón tay múp míp của mụ. Đôi tay Hermione đang run lên vì sợ. Cô nàng mò mẫm trong đống tài liệu đang nằm ngay ngắn trên chiếc ghế kế bên, cuối cùng rút ra một cuộn giấy da với tên bà Cattermole phía trên.

“Cái –– cái đó trông đẹp đấy, Dolores,” cô bé nói, chỉ vào vật đang óng ánh trên áo choàng mụ Umbridge.

“Gì cơ?” Umbridge ngắt lời, liếc xuống. “À, vâng, một cổ vật gia truyền ấy mà,” mụ nói, vỗ nhẹ lên chiếc mề đay đang nằm trên bộ ngực đồ sộ của mình. “Chữ S chính là Selwyn…tôi có quan hệ huyết thống với gia tộc Selwyns…Thực ra, vẫn còn vài gia tộc thuần chủng mà tôi không có chung huyết thống…Tiếc thật,” mụ tiếp tục oang oác, giở lướt qua tờ khai của bà Cattermole, “không thể nào có chuyện đó được. ‘Nghề nghiệp cha mẹ: bán rau quả’.”

Yaxley bật cười khinh miệt. Bên dưới, con mèo bạc đi đi lại lại, và bọn giám ngục đang đứng đợi ở góc phòng.

Những lời dối trá của mụ Umbridge đã làm Harry tức sôi máu, khiến nó không còn chút thận trọng nào nữa –– hóa ra chiếc mề đay mà mụ đã nhận hối lộ từ một tên tội phạm đê tiện giờ đang được mụ sử dụng để chứng tỏ mình thuộc nguồn gốc thuần chủng. Nó giơ đũa phép lên, không thèm che giấu dưới Áo tàng hình, niệm thần chú, “Stupefy!” (Bùa choáng – ND)

Một tia sáng đỏ lóe lên; Umbridge ngã xuống, trán đập vào thành lan can: Hồ sơ của bà Cattermole trượt khỏi tay mụ rơi xuống sàn và tít phía dưới, con mèo bạc đang lượn lờ tan biến mất. Bầu không khí giá lạnh bỗng xộc vào như có một luồng gió vừa thổi đến: Yaxley, bối rối, nhìn quanh tìm nguồn gốc sự việc và thấy bàn tay hiện ra ngoài của Harry chỉ vào hắn. Hắn cố rút đũa phép ra, nhưng quá muộn, “Stupefy!”

Yaxley ngã xuống, nằm sóng soài trên sàn.

“Harry!”

“Hermione, nếu cậu nghĩ tớ có thể ngồi yên để mặc mụ khoác lác ––”

“Harry, bà Cattermole!”

Harry quay xuống, cởi Áo tàng hình ra, bên dưới, lũ giám ngục đã rời khỏi góc phòng, chúng đang lướt về phía người phụ nữ bị xích trên ghế, không biết là do thần Hộ mệnh đã biến mất hay do chủ nhân của chúng không còn kiểm soát chúng được nữa, chúng dường như đã thoát khỏi sự khống chế. Bà Cattermole rú lên kinh hãi khi bàn tay nhầy nhụa, gớm ghiếc túm lấy cằm bà, đẩy mặt bà về phía sau.

“EXPECTO PATRONUM!”

Con nai bạc vút lên từ đầu đũa phép của Harry và lao về phía bọn giám ngục, chúng bị đẩy lùi, tan vào bóng tối một lần nữa. Hào quang từ con nai, rực rỡ và ấm áp hơn con mèo ban nãy rất nhiều, tỏa khắp nơi khi nó phi nước kiệu quanh căn hầm.

“Lấy cái Horcrux đi,” Harry bảo Hermione.

Nó chạy xuống những bậc thềm, nhét áo Tàng hình vào, lao đến chỗ bà Cattermole.

“Ông?” bà ta thì thầm, nhìn chằm chằm vào mặt nó. “Nhưng –– nhưng Reg bảo tôi ông chính là người đã nộp tên tôi để thẩm tra mà!”

“Tôi ư?” Harry khẽ nói, kéo những sợi xích đang trói tay bà ta, “À, tôi đã thay đổi tư tưởng. Diffindo!” Không có gì xảy ra. “Hermione, làm sao để tháo những sợi xích này ra đây?”

“Đợi đã, mình đang thử vài thứ ở đây ––“

“Hermione, chúng ta đang bị bọn giám ngục bao vây!”

“Mình biết, Harry, nhưng nếu mụ tỉnh lại và thấy cái mề đay biến mất – mình cần tạo một bản sao – Geminio! (Nhân đôi – ND) Đây rồi…nó sẽ lừa mụ ta…”

Hermione chạy xuống những bậc thềm.

“Để xem nào…Relashio! (Giải phóng – ND)

Những sợi xích kêu lẻng kẻng và rút vào tay ghế. Bà Cattermole trông vẫn hoảng


sợ như lúc trước.

“Tôi không hiểu,” bà thì thầm.

“Bà phải đi với chúng tôi,” Harry nói, kéo bà ta đi. “Đi về nhà, mang theo con bà và trốn đi, trốn khỏi đất nước này nếu bà có thể. Hãy ngụy trang và bỏ chạy. Bà đã thấy rồi đó, ở đây không còn công bằng nữa.”

“Harry,” Hermione nói, “Làm sao để ra khỏi đây trong khi bọn giám mục đang đứng ngoài cửa?”

“Thần hộ mệnh,” Harry nói, chỉ đũa phép vào thần hộ mệnh của nó. Con nai chầm lại, vẫn tỏa sáng rực rỡ, tiến về phía cánh cửa. “Phải gọi càng nhiều càng tốt; gọi thần hộ mệnh của cậu đi, Hermione.”

“Expec – Expecto patronum,” Hermione nói. Không có gì xảy ra.

“Đó là câu thần chú duy nhất mà cô ấy gặp rắc rối,” Harry nói với bà Cattermole – trông đang hoàn toàn sửng sốt. “Không may một chút…Cố lên Hermione…”

“Expecto patronum!”

Một con rái cá bạc xông ra từ đũa phép của Hermione và bơi một cách duyên dáng trong không khí đến nhập bọn với con nai.

“Đi nào,” Harry nói, nó dẫn Hermione và bà Cattermole đi ra cửa.

Khi những thần hộ mệnh lướt ra ngoài căn ngục, có những tiếng thét kinh ngạc vang lên từ những người đang ở ngoài. Harry nhìn quanh; bọn giám ngục đã bị đẩy lùi ở mọi hướng, lẩn vào bóng tối, bị phân tán bởi những sinh vật sáng bạc.

“Đã có quyết định rằng tất cả mọi người hãy về nhà và trốn đi cùng với gia đình,” Harry nói với những phù thủy có xuất thân Muggle – những người đang bị chói mắt bởi ánh sáng của những thần hộ mệnh. “Hãy trốn ra nước ngoài nếu có thể. Tránh xa Bộ. Đó là– ờ– quan điểm chính thức mới ban hành. Bây giờ, nếu đi theo những thần hộ mệnh mọi người sẽ rời khỏi đây từ Hành lang Vành tay.”

Họ bước lên những bậc thềm đá mà không có gì ngăn cản nhưng khi đến chỗ thang máy Harry mới bắt đầu cảm thấy lo sợ. Nếu họ lao vào hành lang với một con nai bạc, và một con rái cá bay theo, với hai mươi người, nửa trong số họ bị coi là mang xuất thân Muggle, nó không thể không cảm thấy họ sẽ dễ dàng bị chú ý. Nó chỉ mới đi đến kết luận này khi thang máy kêu leng keng tạm ngừng trước mặt họ.

“Reg!” bà Cattermole hét lên, chạy đến ôm chầm lấy Ron. “Runcorn cho em ra ngoài, ông ta đã tấn công Umbridge và Yaxley, và bảo tất cả rời khỏi đất nước này. Em nghĩ chúng ta nên làm như vậy, Reg, đúng vậy đấy, ta hãy về nhà và mang lũ trẻ đi – sao anh ướt thế?”

“Nước,” Ron nói, cố thoát ra. “Harry, họ biết có người đột nhập vào Bộ, cái lỗ gì đó trên cửa phòng làm việc mụ Umbridge. Mình nghĩ chúng ta chỉ còn năm phút nếu”

Thần hộ mệnh của Hermione biến mất với một tiếng bốp khi cô bé đột ngột nhìn Harry đầy kinh hãi.

“Harry, nếu chúng ta kẹt ở đây ––!”

“Chúng ta sẽ không sao nếu chạy nhanh lên,” Harry nói. Nó thông báo với nhóm người đang im lặng phía sau họ, tất cả đang trố mắt nhìn nó.

“Ai có đũa phép nào?”

Khoảng nửa người trong số họ giơ đũa phép lên.

“Được rồi, tất cả những ai không có đũa phép cần đi kèm với một người có. Chúng ta cần phải nhanh lên trước khi bọn chúng có thể chặn ta. Tiến lên nào.”

Họ cố gắng nhồi nhét vào hai chiếc thang máy. Thần Hộ mệnh của Harry đứng canh trước tấm cửa lưới bằng vàng khi họ đóng cửa lại, thang máy bắt đầu đi lên.

“Tầng tám,” giọng điềm tĩnh của một người phụ nữ vang lên, “Hành lang Vành Tai.”

Ngay lập tức Harry biết là họ đang gặp rắc rối. Cửa ra vào đầy ắp người đang di chuyển từ lò sưởi này sang lò sưởi khác, niêm phong chúng lại.

“Harry!” Hermione rít lên. “Chúng ta sẽ”

“NGỪNG LẠI!” Harry thét lớn, và giọng nói đầy uy lực của Runcorn vang khắp hành lang Vành Tai: những pháp sư đang niêm phong các lò sưởi đứng yên không nhúc nhích. “Theo tôi,” nó thì thầm với nhóm người xuất thân Muggle đang sợ hãi, bọn họ đi lộn xộn theo sau Ron và Hermmione.

“Có chuyện gì thế Albert?” vị pháp sư hói ra khỏi lò sưởi sau Harry ban nãy nói. Trông ông ta có vẻ lo lắng.

“Đám người này phải ra khỏi đây trước khi niêm phong cửa,” Harry lấy vẻ uy nghiêm ra nói.

Đám đông pháp sư trước mặt nó chỉ biết nhìn lẫn nhau.

“Chúng tôi được lệnh niêm phong tất cả lối ra và không để ai”

“Muốn cãi lời ta à?” Harry quát tháo. “Có ai cần ta cho người thẩm tra gia phả không, giống như ta đã làm với Dirk Cresswell ấy?”

“Xin lỗi!” vị pháp sư hói hổn hển lùi ra sau. “Tôi không có ý gì cả, Albert, nhưng tôi nghĩ…Tôi nghĩ họ đang bị thẩm vấn và…”

“Họ là phù thủy thuần chủng,” Harry nói, và giọng trầm trầm của nó vang đi đầy ấn tượng khắp đại sảnh. “Dám khẳng định là thuần chủng hơn nhiều người trong số các vị. Ra ngoài nào,” nó nói to với những phù thủy xuất thân Muggle. Tất cả họ chạy gấp vào các lò sưởi và biến mất theo từng cặp. Những nhân viên của Bộ lùi ra sau, một số thấy bối rối, số còn lại lo lắng và hoảng sợ. Thế rồi:

“Mary!”

Bà Cattermole ngoái lại. Reg Cattermole thực, không còn nôn mửa nữa nhưng trông xanh xao và nhợt nhạt, vừa bước ra từ một thang máy.

“R…Reg?”

Bà ta hết nhìn chồng lại đến Ron–đang chửi thề rất to.

Vị pháp sư đầu hói há hốc miệng, cái đầu ông ta quay một cách lố bịch từ Reg Cattermole này sang Reg kia.

“Này…chuyện gì xảy ra vậy? Thế là thế nào?”

“Niêm phong lối ra! NIÊM PHONG NGAY!”

Yaxley vừa xông ra từ một chiếc thang máy khác và đang chạy về phía lò sưởi, nơi mà tất cả những phù thủy xuất thân Muggle đã trốn thoát trừ bà Cattermole. Ngay khi vị pháp sư đầu hói giơ đũa phép lên, Harry liền nện cho ông ta một cú đấm trời giáng, văng ông ta lên không khí.

“Yaxley, Chính hắn đã giúp bọn phù thủy gốc Muggle trốn thoát!” Harry la lớn.

Những đồng nghiệp của vị pháp sư đầu hói bắt đầu la hét om sòm, nhân lúc đó Ron túm lấy tay bà Cattermole, đẩy bà ta vào lò sưởi còn mở, biến mất. Lúng túng, Yaxley quay qua quay lại từ Harry đến vị pháp sư vừa bị đấm, trong khi ông Reg Cattermole thực thét lên. “Vợ tôi! Ai đi với vợ tôi thế kia? Chuyện gì đang xảy ra thế này?”

Harry thấy Yaxley quay đầu lại, khuôn mặt hung ác của hắn mơ hồ hiểu ra chuyện.

“Đi nào!” Harry la lên với Hermione; nó túm lấy tay cô nàng nhảy vào một lò sưởi, bùa phép của Yaxley sượt ngang đầu Harry. Chúng lảo đảo một lúc trước khi văng ra khỏi cái toa–let vào trong một phòng ngủ nhỏ. Harry nhào đến mở cửa: Ron đang đứng đó bên cạnh một chậu nước, vẫn đang đối phó với bà Cattermole.

“Reg, em không hiểu”

“Đi nào, tôi không phải là chồng bà, bà phải về nhà!”

Có tiếng động trong căn phòng phía sau họ; Harry quay lại; Yaxley vừa mới xuất hiện.

“ĐI THÔI!” Harry kêu to. Nó túm lấy bàn tay Hermione và cánh tay Ron, biến mất ngay tại nơi chúng vừa dừng lại.

Bóng tối bao trùm bọn chúng, cùng với cảm giác tay bị nắm chặt, nhưng có gì đó không ổn…Bàn tay của Hermione dường như đang trượt khỏi tay nó…

Nó tự hỏi không biết có bị nghẹt thở không; nó không thể thở hay nhìn thấy bất cứ vật rắn nào nữa ngoài cánh tay Ron và những ngón tay Hermione, những ngón tay đang từ từ tuột ra…

Và rồi nó thấy cánh cửa của căn nhà số mười hai, quảng trường Grimmauld, với tay nắm cửa hình con rắn, nhưng trước khi nó có thể hít vào, bỗng có một tiếng thét và một tia sáng tím: bàn tay Hermione đột ngột túm lấy tay nó và mọi thứ lại tối sầm lần nữa.

Chương 14: Tên trộm.

Harry mở mắt ra và bị mắt hoa lên bởi xung quanh màu vàng xen lẫn xanh; nó không có khái niệm nào về chuyện gì đã xảy ra, nó chỉ biết có vẻ như nó đang nằm đè lên lớp lá xen lẫn cành cây khô. Gắng sức để hít một hơi thật sâu vào hai lá phổi vừa bị nghẹt lại, nó chớp mắt và nhận ra màu sắc chói loà ấy là do ánh sáng mặt trời chiếu xen qua vòm lá ở trên cao. Sau đó, một thứ gì đấy chuyển động ở ngay cạnh mặt nó. Harry vội xoay người lại chống tay nhổm lên trên hai đầu gối, chuẩn bị tinh thần để đối mặt với một sinh vật nhỏ bé dữ tợn nào đó, nhưng đó chỉ là bàn chân của Ron. Đảo mắt nhìn quanh, Harry nhận ra nóhai đứa và Hermione đang nằm trên nền của một khu rừng, rõ ràng là chỉ có ba người.

Lúc đầu, Harry nghĩ rằng nơi đây là Rừng Cấm, và trong một khoảnh khắc, mặc dù nó biết thật là ngu ngốc và nguy hiểm cho cả bọn khi xuất hiện trong khu đất của Hogwarts, tim nó đập mạnh khi nghĩ về việc vòng qua những cái cây để đến căn lều của bác Hagrid. Tuy nhiên, sau khi nghe tiếng Ron rên rỉ và Harry nhìn kỹ lại về phía cậu ta, nó nhận ra đây không phải là Rừng Cấm; những cái cây có vẻ ít tuổi hơn, và không gian nơi này sạch sẽ và rộng rãi hơn nhiều.

Nó quay sang Hermione, cô cũng đang chống tay và quỳ trên mặt đất ở trên phía đầu của Ron. Lúc mắt Harry nhìn vào Ron, những ý nghĩ khác biến mất khỏi tâm trí khi thấy cảnh máu quyện bê bết ở phía bên trái Ron và khuôn mặt cậu trắng bệch, nổi bật lên trên mặt đất phủ đầy lá. Thuốc Đa Dịch đang hết tác dụng: hình dạng của Ron đang là sự kết hợp của Cattermole và chính cậu ta, mái tóc cậu chuyển dần sang màu đỏ trong khi sắc mặt cậu nhợt nhạt hẳn đi.

“Chuyện gì xảy ra với cậu ấy thế?”

“Bị Rời Thân,” Hermione nói, ngón tay cô loay hoay với tay áo của Ron, nơi máu chảy nhiều nhất. (Note: Tách thân là tai nạn gây ra bởi phép Độn thổ không hoàn hảo, một phần cơ thể bị bỏ lại phía sau – ND)

Harry nhìn cô, vẻ mặt hoảng sợ khi cô xé toạc áo ngoài của Ron. Harry luôn nghĩ việc Tách thân là một điều gì đấy hài hước, nhưng lần này…Nó thấy trong người cồn cào khi Hermione đặt cánh tay trần của Ron xuống, với một phần thịt bị mất đi trông như thể nó bị xẻo bởi một lưỡi dao sắc bén.

“Harry, nhanh lên, trong ví mình có một lọ nhỏ nhãn ghi ‘Tinh dầu Bạch tiễn’ -”

“Ví hả – được rồi -”

Harry chồm người tới nơi Hermione đã hiện hình, túm lấy cái ví nhỏ và thọc tay vào bên trong. Ngay lập tức, đồ vật này tới đồ vật khác chạm vào tay nó: Nó cảm thấy những chồng sách bọc da, những cánh tay mịn của những chiếc áo bó, những gót giày –

“Nhanh lên!”

Nó vội nhặt đũa phép từ mặt đất lên và chỉ vào bên trong lòng cái túi ma thuật.

“Accio Bạch tiễn!”

Một cái lọ nhỏ màu nâu bay ra khỏi chiếc túi; nó chụp lấy nó và vội quay lại chỗ Hermione và Ron, đôi mắt Ron bây giờ chỉ mở lờ đờ, chỉ còn thấy lòng trắng ở giữa hai mí mắt của cậu ta.

“Cậu ấy đang ngất đi,” Hermione nói, mặt cô bé tái nhợt; cô không còn trông giống như Mafalda nữa, mặc dù tóc cô vẫn có một số nơi màu xám. “Harry, mở nút cho mình, tay mình đang run.”

Harry lôi cái nút chai khỏi cái lọ nhỏ, Hermione cầm lấy và đổ ba giọt dung dịch vào vết thương đang chảy máu. Một làn khói màu xanh lá cây toả lên, và khi nó tan đi, Harry thấy máu đã ngừng chảy ra từ vét thương. Vết thương bây giờ trông như đã qua vài ngày; da non đã kéo phủ lên vết thương lúc mới đây còn trần trụi.

“Wow,” Harry nói.

“Đó là tất cả những gì mình cảm thấy có thể làm được một cách đảm bảo,” Hermion yếu ớt nói. “Có vài câu thần chú có thể giúp cậu ấy ổn ngay, nhưng mình không dám thử, trong trường hợp mình làm sai nó sẽ khiến cậu ấy bị thương nặng thêm…Cậu ấy đã mất quá nhiều máu rồi…”

“Làm thế nào mà cậu ấy lại bị thương? Ý mình là” – Harry lắc đầu, cố gắng diễn đạt một cách rõ ràng để hiểu được chuyện gì vừa xảy ra – “tại sao chúng ta ở đây? Mình nghĩ chúng ta quay lại Quảng trường Grimmauld chứ?”

Hermione hít một hơi dài. Cô trông như sắp bật khóc.

“Harry, mình không nghĩ chúng ta sẽ có thể quay lại nơi đấy.”

“Ý cậu là –?”

“Khi chúng ta Độn thổ, Yaxley đã nắm được mình và mình không thể thoát khỏi lão ta, lão ta quá mạnh, và lão vẫn giữ lấy mình khi chúng ta đến Quảng trường Grimmauld, và sau dó – ừm, mình nghĩ hắn ta đã thấy cảnh cửa, và nghĩ rằng chúng ta sẽ dừng lại ở đấy, cho nên hắn đã lỏng tay ra và mình đã cố vùng khỏi hắn, sau đấy mình đưa chúng ta đến đây!”

“Nhưng sau đấy, hắn ta đi đâu? Khoan đã…Cậu không phải đang nói là hắn ta ở Quảng trường Grimmauld đấy chứ? Hắn ta không thể vào trong đấy được mà?”

Cô bé gật đầu, mắt lấp lánh những giọt nước chực trào ra.

“Harry, mình nghĩ hắn có thể. Mình – mình đã bắt hắn buông mình ra bằng bùa Thả Rời, nhưng mình đã lỡ đưa hắn vào trong vòng bảo vệ của bùa Trung tín. Vì cụ Dumbledore đã qua đời rồi, cho nên chúng ta là những Người Giữ Bí Mật, nghĩa là mình đã đưa cho hắn bí mật rồi, phải không?”

Không có gì là vờ vĩnh ở đây cả; Harry chắc chắn cô đã đúng. Đây là một đòn đánh nặng. Nếu Yaxley có thể vào trong ngôi nhà, không có cách nào để bọn chúng có thể quay lại. Giờ đây, hắn đã có thể đưa các tên Tử thần thực tử vào đấy bằng cách Độn thổ. Mặc dù ngôi nhàkhá u ám và ngột ngạt, nhưng đấy là một nơi trú ẩn an toàn; và hơn nữa, bây giờ Kreacher đã vui vẻ và thân thiện hơn, một nơi có thể gọi là nhà được. Với một cảm giác đau khổ nuối tiếc không phải do đồ ăn, Harry thấy xốn xang trong lòng, nó có thể hình dung con gia tinh đangbận bịu với những cái bánh nhân thịt trộn bầu dục mà Harry, Ron và Hermione sẽ không bao giờ ăn.

“Harry, mình xin lỗi, mình thật sự xin lỗi!”

“Đừng như thế nữa, đó không phải lỗi của cậu! Nếu ai đó có lỗi, đấy là mình…”

Harry đút tay vào túi và lấy ra con mắt của thầy Mắt Điên. Hermione giật mình, vẻ mặt trông hết sức bang hoàng khiếp sợ.

“Mụ Umbridge đã gắn nó vào cửa văn phòng làm việc của mụ, để theo dõi người khác. Mình không thể đế nó ở đấy…nhưng đấy là lý do tại sao họ biết là có những kẻ đột nhập.”

Trước khi Hermione kịp trả lời, Ron rên rỉ và mở mắt ra. Trông cậu ta vẫn còn xám ngắt và khuôn mặt ướt đẫm mồ hôi.

“Cậu thấy thế nào?” Hermione thì thầm.

“Tồi tệ,” Ron càu nhàu, nhăn nhó khi cảm giác thấy cánh tay bị thương. “Chúng ta ở đâu đây?”

“Trong cánh rừng nơi cúp Quidditch thế giới được tổ chức,” Hermione nói. “Mình muốn đến một nơi khép kín, không bị quấy rầy, và đây là nơi -”

“- đầu tiên mà cậu nghĩ đến,” Harry tiếp lời cô, đảo mắt nhìn xung quanh, hiển nhiên nơi đây đã bị bỏ hoang. Nó không thể không nghĩ tới chuyện đã xảy ra trong lần cuối mà ba người Độn thổ tới địa điểm đầu tiên mà Hermione nghĩ đến– bằng cách nào những tên Tử thần thực tử có thể tìm thấy họ chỉ trong vài phút. Có phải đấy là Legilimency? (Đọc tâm trí – ND) Liệu Voldemort và những tay sai ngay bây giờ có biết nơi mà Hermione đã đưa chúng đến không?

“Cậu có nghĩ chúng ta nên đi tiếp không không?” Ron hỏi Harry, và nó có thể nói qua vẻ mặt Ron rằng cậu ấy cũng đang nghĩ như thế.

“Mình không biết.”

Ron trông vẫn xanh xao và yếu ớt. Cậu không buồn ngồi dậy và có vẻ như cậu ấy quá yếu để làm điều đó. Ý nghĩ về việc phải di chuyển Ron khiến Harry nản chí.

“Tạm thời bây giờ hãy ở đây đã,” Harr nói.

Trông có vẻ bớt căng thẳng hơn, Hermione đứng lên nhủn nhảy.

“Chúng ta sẽ đi đâu?” Ron hỏi.

“Nếu chúng ta định ở lại, chúng ta nên yếm vài bùa chú bảo vệ ở nơi đây,” cô trả lời, nâng đũa phép lên, cô bắt đầu bước vòng quanh Harry và Ron, vừa đi vừa lẩm bẩm những câu thần chú. Harry thấy những sự thay đổi nhỏ trong bầu không khí bao quanh: điều này như thể là Hermione đã yếm một bầu không khí ấm ápbao xung quanh bọn nó

“Salvio Hexia…Protego Totalum…Repello Muggletum…Muffliator…Cậu có thể lấy cái lều ra được rồi, Harry…”

(Ý nghĩa: Hoá giải bùa yếm…Bảo vệ toàn bộ…Đuổi Muggle…Ù tai…- ND)

“Lều ư?”

“Trong cái ví!”

“Trong cái…à dĩ nhiên,” Harry nói.

Harry không buồn thò tay vào trong ví lần này, nó sử dụng bùa Triệu tập. Cái lều hiện ra với tấm vải lều đầy hoa văn, dây nhợ và những cái cọc. Harry nhận ra nó, một phần là vì mùi của những con mèo, đây là chiếc lều mà chúng đã ngủ trong đêm ở cúp Quidditch Thế giới.

“Mình tưởng cái này là của gã Perkins ở bộ Pháp thuật?” nó hỏi, bắt đầu gỡ các cọc lều ra.

“Rõ ràng ông ấy không cần nó nữa, chứng đau lưng hành hạ ông ta ghê lắm,” Hermione vừa nói vừa thực hiện một thao tác hình số tám phức tạp với đôi đũa của cô, “vậy nên bố của Ron bảo mình có thể mượn nó. Erecto!” (Note: Dựng lên – ND) cô nói thêm, chỉ đũa vào tấm vải méo mó, làm cho nó trồi lên nhẹ nhàng trong không khí và cuối cùng ngừng lại, cái lều chắc chắn được dựng lên trước mătHarry, trong khi nó vẫn đang loay hoay dựng một cái cọc lên rồi ngã phịch người xuống đất cạnh một đầu dây.

“Cave Inimicum,”(Note: Làm vững chãi – ND) Hermione hoàn tất với một cái huơ tay lên trời. “Đây là tất cả những gì mình có thể làm. Ít ra là, chúng ta có thể biết bọn chúng đến đây khi nào; Mình không đảm bảo nó có thể giữ chân Vol -”

“Đừng nói cái tên đấy ra!” Ron gắt giọng cắt ngang.

Harry và Hermione nhìn nhau.

“Mình xin lỗi,” Ron nói, khẽ lầm bầm khi ngẩng lên nhìn hai người bạn, “nhưng nó cảm giác như là một – một điềm xui hay cái gì đấy. Chúng ta có thể gọi hắn là Kẻ-Là-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy được không? Làm ơn!”

“Thầy Dumbledore nói rằng việc sợ hãi một cái tên -” Harr bắt đầu nói.

“Trong trường hợp cậu quên, bạn à, việc gọi tên Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy không giúp gì nhiều cho cụ Dumbledore lúc ấy,” Ron cự lại. “Chỉ là – chỉ là tỏ một chút kính trọng tới Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy thôi, được không?”

“Kính trọng?” Harry lặp lại, nhưng Hermione trừng mắt ngăn không cho nó nói; rõ ràng nó không nên tranh cãi với Ron trong khi cậu ta đang ở trong tình trạng sức khoẻ yếuớt như thế này.

Harry và Hermione một tay mang đồ, một tay kéo Ron qua cánh cổng của túp lều. Bài trí bên trong vẫn giữ nguyên như là trong ký ức của Harry; một ngăn phòng nhỏ cùng với phòng tắm và một cái nhà bếp xinh xinh. Nó dẫm lên một bên của cái ghê bành cũ và cẩn thận hạ Ron xuống lên một cái giường ngủ cũ. Chỉ với một sự di chuyển ngắn như thế này đã khiến Ron trông còn nhợt nhạt hơn, và sau khi hai đứa đã đặt cậu yên vị trên tấm đệm, cậu ta nhắm mắt lại và im lặng một lúc.

“Mình sẽ pha một ít trà, Hermione hổn hển nói, lôi ấm đun nước và mấy cái vại từ trong cái ví của cô và quay về phía nhà bếp.

Harry phát hiện rằng thứ đồ uống nóng ấy cũng có tác dụng như rượu Whiskey lửa mà nó dùng trong đêm mà thầy Mắt-Điên chết; thứ này có vẻ đốt đi những sợ hãi run rẩy ở dưới ngực nó. Sau một hay hai phút, Ron phá vỡ sự im lặng.

“Cậu nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra với Cattermoles?”

“Nếu may mắn, họ sẽ phải trốn đi được,” Hermione nói, ôm lấy cốc trànóng một vẻ dễ chịu. “Chừng nào mà ông Cattermole còn có hiểu biết trong đầu, ông ta sẽ phải di chuyển bà Catterole bằng phép Độn thổ Đi kèm và họ sẽ đang bỏ trốn đất nước này ngay bây giờ với những đứa trẻ của họ. Đấy là những gì mà Harry đã nói với bà ấy phải làm.”

“Ôi, mình hy vọng họ đã trốn thoát được,” Ron nói, dựa người vào những cái gối. Tách nước trà có vẻ giúp cậu ta cảm thấy tốt hơn nhiều; một chút màu sắc đã xuất hiện lại trên khuôn mặt. “Tuy nhiên mình không có cảm giác Reg Cattermorre suy nghĩ được nhanh như thế, qua cách mà mọi người nói chuyện với mình khi mình là ông ta. Trời ơi, mình hy vọng họ làm được…Nếu gia đình họ bị đưa đến Azkaban bởi vì chúng ta thì…”

Hary ngước nhìn Hermione và câu hỏi mà nó định hỏi – về vấn đề có khi nào không có đũa phép của bà Cattermole sẽ ngăn cho bà ấy Độn thổ bên cạnh chồng bà không – bị chặn đứng lại ở họng. Hermione đang nhìn vẻ mặt buồn phiền của Ron về số phận của nhà Cattermole, và có một sự dịu hiền trong thái độ đó làm Harry cảm thấy như thể nó vừa bắt quả tang cô vừa hôn cậu ấy.

“Vậy, cậu có nó chưa?” Harry hỏi cô, một phần nhắc khéocô rằng nó đang có mặt ở đấy.

“Có – có cái gì?” Cô bé hỏi.

“Thứ mà chúng ta vừa trải qua tất cả để có nó? Cái mề đay! Cái mề đay ở đâu rồi?”

“Cậu lấy được nó ư?” Ron hét lên, hơi nhổm người dậy khỏi những cái gối. “Không ai nói cho mình điều gì cả! Trời ơi, cậu phải nhắc về nó chứ!”

“Ừm, chúng ta đã phải chạy trốn khỏi những tên Tử thần thực tử, phải không?” Hermione nói. “Nó đây.”

Rồi cô kéo cái mề đay ra khỏi túi áo choàng và trao nó cho Ron.

Cái mề đay to như một quả trứng gà. Một chữ S lộng lẫy, được chạm trổ tinh vi nhiều hạt đá nhỏ màu xanh lấp lánh dưới ánh sáng mờ ảo xuyên qua mái lều bằng vải bạt.

“Có khi nào ai đó đã phá huỷ nó từ khi Kreacher có nó không?” Ron hỏi một cách hy vọng. “Ý mình là, chúng ta có chắc chắn được đây vẫn là một Horcrux không?”

“Mình nghĩ vậy,” Hermion nói, lấy cái horcrux lại và nhìn kỹ vào nó. “Sẽ có vài dấu vết của sự sứt mẻ nếu nó đã được phá huỷ bằng pháp thuật.”

Cô chuyển nó cho Harry, nó xoay xoay vật đó trên đầu ngón tay. Vật này trông vẫn hoàn hảo, nguyên vẹn. Nó nhớ lại phần còn sót lại xơ xác của cuốn nhật ký, và hòn đá trong cái Horcrux


là chiếcnhẫn đã bị nứt ra khi cụ Dumbledore phá huỷ nó.

“Mình nghĩ Kreacher nói đúng.” Harry nói. “Chúng ta sẽ phải tìm ra cách làm thế nào mở được thứ này ra trước khi chúng ta có thể phá huỷ nó.”

Harry bật chợt nhận ra một điều ở vật mà nó đang cầm, về thứ đang sống phía sau cái nắp màu vàng nhỏ bé kia. Dù đã bỏ ra tất cả những nỗ lực của nó để tìm kiếm thứ này, nó bỗng trỗi lên cảm giác thôi thúc mạnh mẽ muốn ném cái mề đay xa khỏi người nó. Lấy lại sự tự chủ, nó cố bẩy cái mề đay ra bằng ngón tay, rồi lại cố gắng thử bùa chú mà Hermione đã dùng để mởcánh cửa phòng củachú Regulus. Không có cách nào được cả. Nó đưa cái mề đay lại cho Ron và Hermione, mỗi đứa lại cố gắng hết sức để thử, nhưng không đứa nào làm tốt hơn nó trong việc mở cái mề đay ra.

“Nhưng mà, cậu có cảm thấy nó không?” Ron thì thào khỏi, tay nắm chặt lấy cái mề đay.

“Ý cậu là gì?”

Ron trao cái Horcrux cho Harry. Sau một vài tích tắc, Harry nghĩ nó hiểu ý của Ron là gì. Có phải là dòng máu của nó đập nhẹ qua những mạnh máu cho nó cảm giác ấy, hay là có thứ gì đó đang đập ở bên trong cái mề đay, như là một trái tim kim loại chẳng hạn?

“Chúng ta sẽ dự định làm gì với thứ này đây?” Hermione hỏi.

“Giữ cho nó an toàn cho đến khi chúng ta tìm ra cách để phá huỷ nó.” Harry nói, và dù không thích lắm nhưng nó vẫn vòng cái dây đeo quanh cổ, thả cái mề đay giấu vào trong áo choàng, nơi nó nằm bên cạnh cái túi nhỏ mà Hagrid đã đưa cho nó.

“Mình nghĩ chúng ta nên thay phiên trông chừng phía bên ngoài lều,” nó nói thêm với Hermione đang đứng dậy vươn người. “Và chúng ta sẽ cần nghĩ về vấn đề thức ăn nữa. Cậu ở đó đi,” nó nói ngắn gọn khi Ron cố ngồi dậy, mặt trở nên xanh xao mệt mỏi.

Đặt cái Ống kính Mách lẻo mà Hermione tặng cho Harry trong ngày sinh nhật lên cái bàn trong lều một cách cẩn thận, Harry và Hermione sử dụng hầu hết thời gian chia nhau canh gác xung quanh. Tuy nhiên, cái Ống kính Mách lẻo vẫn lặng im đứng yên cả ngày, hiển nhiên dù đấy là nhờnhững bùa bảo vệ và những thần chú chống Muggle mà Hermione đã trải xung quanh, hay là việc hiếm khi người ta đi qua con đường này, khoảnh rừng mà bọn nó ở vẫn giữ yên đượcvẻ hoang vắng, ngoài việc thỉnh thoảng xuất hiện một vài con chim hay chú sóc ngơ ngác. Buổi tối cũng không có điều gì thay đổi, Harry thắp sáng đũa phép của nó lúc đổi phiên với Hermione lúc mười giờ tối, lặng nhìn ra ngoài khung cảnh hoang vắng, chỉ có những con dơi chập chờn bay bên trên khoảng trời nhỏ đầy sao mà nó có thể thấy được từ trong khu vực được yếm bùa này.

Giờ nó cảm thấy đói, và còn thấy hơi mơ màng. Hermione đã không đóng gói thứ thức ăn nào trong cái ví pháp thuật của cô vì cô đơn giản nghĩ rằng bọn nó sẽ trở về quảng trường Grimmauld tối nay, vậy nên cả bọn không có gì để ăn ngoài một vài cây nấm dại mà Hermione đã nhặt từ những cây gần nhất ở xung quanh rồi hầm trong một cái nồi cắm trại. Sau tống vào miệng hai muỗng đầy ắp, Ron đã đẩy của phần của cậu ta đi, vẻ mặt trông như thể sắp nôn ra; Harry cố gắng giữ ý để không làm tổn thương cảm giác của Hermione.

Sự im lặng bao trùm bị phá vỡ bởi tiếng sột soạt lạ lẫm và một âm thanh nghe như tiếng cành cây khô bị gãy: Harry nghĩ có lẽ chúng là của những con vật chứ không phải của con người, tuy nhiên nó vẫn nắm chặt đũa sẵn sàng tinh thần. Bên trong người nó sẵn đã có cảm giác khó chịu bởi phần thức ăn từ nấm hoang, giờ lại xen lẫn thêm sự lo lắng.

Nó đã nghĩ rằng nó sẽ cảm thấy hân hoan nếu bọn nó cố ăn trộm lại được cái Horcrux, nhưng hình như giờ nó không thấy thế; tất cả những gì nó thấy khi nó ngồi nhìn ra ngoài vào bóng đêm, với một đốm sáng nhỏ bé từ cây đũa của nó, là sự lo lắng về điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Điều này như thể mặc dầu nó đã đạt được mục đích của nó sau nhiều tuần, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, nhưng rồi cuối cùng lại đến một điểm dừng lại bất ngờ, không còn đường để đi nữa.

Có những Horcrux khác đang ở ngoài kia, nhưng nó không có một ý niệm rõ ràng về việc chúng có thể ở những nơi nào. Nó thậm chí không biết được chúng là những thứ gì. Trong khi đó nó là một kẻ thất bại trong việc tìm được cách huỷ diệt có mỗi một cái Horcrux mà chúng vừa tìm được, cái Horcrux mà giờ đang nằm lên phần da thịt trần trên ngực nó. Điều kỳ lạ là nó không hề thu nhiệt từ người Harry, nhưng lại nằm một cách rất lạnh lẽo ép vào da thịt nó như thể cái mề đay vừa bị nhúng xuống nước đá. Thỉnh thoảng Harry nghĩ, có lẽ là tưởng tượng, rằng nó có thể cảm thấy nhịp đập nhỏ bé khe khẽ bên cạnh nhịp đập của trái tim nó.

Những linh cảm không tên luồn vào nó khi nó ngồi đó trong bóng đêm. Nó cố chống lại chúng, đẩy chúng ta, nhưng chúng cứ ùa vào một cách không ngừng nghỉ. Kẻ này không thể sống khi kẻ kia tồn tại. Ron và Hermione khẽ nói chuyện trong lều phía sau nó, hai đứa có thể rời đi nếu chúng muốn: Nó thì không thể. Khi Harry ngồi đó cố gắng kiểm soát sự sợ hãi và sự mệt mỏi của riêng nó, nó hình như cảm thấy cái Horcrux ép chặt lấy ngực của nó đang tích tắc đếm ngược dần thời gian mà nó còn lại…Một ý nghĩ ngu ngốc, nó nói với chính mình, đừng nghĩ như thế…

Cái sẹo của nó bắt đầu có cảm giác kim châm đau nhói. Nó đã sợ rằng nó sẽ làm cho chuyện này xảy ra bởi những ý nghĩ đó, và nó cố hướng chúng sang một điều khác. Nó nghĩ tới Kreacher tội nghiệp, kẻ đang chờ chúng về nhà rồi cuối cùng thay vào đó là Yaxley. Liệu con gia tinh sẽ giữ im lặng hay nó sẽ nói những tên Tử thần thực tử mọi thứ nó biết? Harry muốn tin rằng Kreacher đã thay đổi các nhìn về nó trong một tháng qua, rằng nó bây giờ đã trở nên trung thành, nhưng ai biết được chuyện gì xảy ra? Nếu những tên Tử thần thực tử tra tấn con gia tinh thì sao? Những hình ảnh rung rợn tràn vào đầu Harry và nó cũng cố xua đuổi chúng đi, nó không thể làm gì cho Kreacher cả: nó và Hermione đã phải quyết định chống lại việc cố truy gọi Kreacher; nếu ai đó từ Bộ pháp thuật đến cùng thì sao? Chúng không tin tưởng rằng việc độn thổ của Gia tinh sẽ không bị kiểm soát từ cái sai lầm mà đã đưa Yaxley tới quảng trường Grimmauld bằng viền áo của Hermione.

Cái sẹo của Harry như đang thiêu đốt. Nó nghĩ rằng có quá nhiều điều bọn chúng chưa biết: Lupin đã đúng về những pháp thuật chúng chưa bao giờ bắt gặp hay hình dung ra. Tại sao cụ Dumbledore đã không giải thích nhiều thêm? Hay cụ nghĩ sẽ có thêm nhiều thời gian; rằng cụ sẽ sống thêm nhiều năm, có lẽ là thế kỷ nữa, như là người bạn của cụ Nicolas Flamel? Nếu như vậy, cụ đã sai…nó đã thấy Snape làm chuyện đó…Snape, con rắn độc ngủ yên, kẻ đã tung đòn ở trên đỉnh tháp…

Và cụ Dumledore rơi xuống…rơi xuống…

“Trao nó cho ta, Gregorovitch.”

Giọng nói của Harry cao, rõ ràng và lạnh lẽo, đũa của nó giơ lên phía trước người bởi một bàn tay với những ngón tay dài trắng bệch. Người đàn ông mà nó đang chỉ đũa vào đang bị treo ngược ở trong không khí, mặc dầu chả có sợi dây nào giữ ông ta cả; ông ta lắc lư ở đấy, bị giữ lại một cách vô hình và kỳ quái, tay chân ông co lại xung quanh người, khuôn mặt ông ta hoảng sợ, trên cả mức hồng hào của Harry bởi vì máu đã dồn xuống đầu ông. Ông ta có một bộ tóc trắng muốt và một bộ râu dày, rậm rạp: một Ông già Noel đang bị trói ngược.

“Tôi không có nó, tôi không còn có nó nữa! Nó, nhiều năm trước, đã bị ăn cắp rồi!”

“Đừng bao giờ nói dối với Chúa tể Voldemort, Gregorovitch. Ngài biết…Ngài luôn luôn biết.”

Đồng tử của người đang bị treo mở rộng, giãn ra trong sợ hãi, và rồi chúng phình lên, lớn dần và lớn dần cho tới khi màu đen của chúng nuốt chửng lấy Harry –

Harry vội theo sau Gregorovitch trong một hành lang tối khi ông ta đang giơ cao một cái đèn lồng: Gregorovitch vội lao vào căn phòng ở cuối hành lang và cái đèn lồng chiếu vào một nơi trông như là xưởng làm việc; bào gỗ và vàng ánh lên trong ánh sáng chập chờn, và ở kia trên gờ cái cửa sổ ở kia một cậu trai trẻ với mái tóc vàng như một chú chim khổng lồ. Trong chưa đầy một tích tắc khi ánh đèn lồng hắt lên mặt anh ta, Harry thấy sự vui sướng trên khuôn mặt đẹp trai đó, và kẻ đột nhập bắn một bùa Choáng từ cây đũa của anh ta rồi búng người vụt ra sau cửa sổ với một tràng cười lớn.

Và Harry lại vút lùi lại ra sau những con ngươi rộng như một đường hầm ấy, khuôn mặt Gregorovitch đang đờ ra vì khiếp đảm.

“Ai là kẻ trộm, Gregorovitch?” giọng nói cao và lạnh cất lên.

“Tôi không biết, tôi chưa bao giờ biết, một gã trẻ tuổi – không – làm ơn – LÀM ƠN!”

Một tiếng hét vang lên và sau đấy làmột chùm sáng xanh lục –

“Harry!”

Harry mở mắt ra thở hổn hển, trán của nó nhức nhối. Nó đã ngã ra phía ngoài lều, trượt dọc theo tấm bạt, và nằm xoài ra trên mặt đất. Nó nhìn lên Hermione, mái tóc dài của cô che đi khoảng trời nhỏ còn nhìn thấy qua những cành cây tối đen đan xen ở trên cao.

“Một giấc mơ,” nó nói, vội vàng ngội giậy và cố gắng chống lại cái trừng mắt của Hermione bằng một cái nhìn vô tội. “Nó phải được ngừng lại, mình xin lỗi.”

“Mình biết đó là vết sẹo của cậu! Mình có thể nói bằng việc nhìn vào khuôn mặt của cậu! Cậu đã nhìn vào trong tâm trí của Vol -”

“Đừng nói tên hắn ra!” Ron nói giận giữ nói vọng từ trong lều ra.

“Được rồi,” Hermione gắt lên, “vậy thì, tâm trí của Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-A-Đấy!”

“Mình không có ý để nó xảy ra!” Harry nói. “Nó là một giấc mơ. Liệu cậu có thể kiểm soát những gì cậu mơ thấy không, Hermione?”

“Nếu cậu đơn giản là học cách sử dụng Bế quan Bí thuật”

Nhưng Harry không hứng thú để nghe dạy bảo; nó muốn nói về những gì nó đã nhìn thấy.

“Hắn đã tìm thấy Gregorovitch, Hermione à, mình nghĩ hắn đã giết ông ấy, nhưng trước khi hắn giết ông ta hắnd đã đọc tâm trí của Gregorovitch và mình thấy”

“Mình nghĩ mình nên tiếp tục canh chừng nếu cậu quá mệt đến mức ngủ quên,” Hermione lạnh lùng nói.

“Mình có thể tiếp tục phiên canh gác!”

“Không, rõ ràng là cậu quá mệt mỏi. Hãy đi nằm nghỉ đi.”

Cô bé thả phịch người xuống cửa lều, trông vẻ ương ngạnh. Khá tức giận, nhưng không muốn chạm mặt cô nàng, Harry đi vào bằng đường phía sau.

Khuôn mặt của Ron vẫn trắng bệch thò ra từ cái giường ngủ phía dưới; Harry trèo lên giường trên, nằm xuống, nhìn chăm chăm vào cái trần bạt u ám. Sau một lúc, Ron nói bằng một giọng thì thầm để không vang tới tai Hermione đang canh gác ở ngoài cửa vào.

“Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy đang làm gì thế?”

Harry nhướn mắt để cố nhớ ra mọi chi tiết, rồi thì thầm trong bóng tối.

“Hắn ta đã tìm thấy Gregorovitch. Hắn trói ông ta lại, rồi hắn tra tấn ông ta.”

“Làm thế nào mà Gregorovitch có thể làm một cây đũa mới nếu ông ta bị trói?”

“Mình không biết…Nó thật quái lạ, phải không?”

Hary nhắm mắt lại, nghĩ về tất cả những gì nó đã nghe và đã thấy. Càng nhiều điều nó nhớ lại, mọi việc càng trở nên kém vô lý…Voldemort đã không nói gì tới cây đũa của Harry, không nói gì về hai cái lõi song sinh, không nói gì về việc Gregorovitch làm một cây đũa mới và mạnh mẽ hơn để đỡ được cây đũa của Harry…

“Hắn ta muốn một thứ gì đấy từ Gregorovitch,” Harry nói, mắt nó vẫn nhắm chặt. “Hắn ta bắt ông ta phải giao nó ra, nhưng Gregorovitch nói thứ đó đã bị ăn trộm…và rồi…rồi…”

Harry nhớ lại việc nó, tức Voldemort đã lướt dọc theo qua đôi mắt của Gregorovitch, vào trong ký ức của ông ta…

“Hắn ta đã đọc tâm trí của Gregorovitch, và mình thấy một gã trẻ tuổi ngồi vắt vẻo trên bờ cửa sổ, anh ta phát mọt câu thần chú vào Gregorovitch và nhảy ra khỏi tầm nhìn. Anh ta đã ăn trộm nó, anh ta ăn trộm thứ gì đó mà Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy đang truy tìm. Và mình…mình nghĩ mình đã thấy anh ta ở đâu đó rồi…”

Harry ước nó có được một cái nhìn thoáng qua của khuôn mặt của chàng trai đấy. Theo như Gregorovitch, vụ trộm đã xảy ra nhiều năm trước. Tại sao tên trộm trẻ tuổi trông rất quen thuộc?

Những âm thanh từ trong khu rừng bao quanh khẽ lan truyền vào trong cái lều; tất cả những gì Harry có thể nghe được là hơi thở của Ron. Sau một lúc, Ron lại thì thầm, “Cậu không thấy thứ tên trộm cầm là gì à?”

“Không…nó chắc hẳn là một thứ gì nhỏ bé.”

“Harry này?”

Những thanh gỗ của chiếc giường Ron nằm kêu kẽo kẹt khi cậu xoay người.

“Harry, cậu có nghĩ rằng Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy đang tìm kiếm thứ gì khác để biến nó thành Horcrux chứ?”

“Mình không rõ,” Harry chậm rãi nói. “Có lẽ. Nhưng chẳng phải nó sẽ nguy hiểm cho hắn nếu hắn làm thêm một cái nữa? Hermione đã nói hắn ta đã xẻ linh hồn tới mức tối da rồi mà?”

“Ừ, nhưng có thể hắn ta không biết điều đó.”

“Ừm…có thể,” Harry nói.

Nó đã chắc rằng Voldemort đã tìm kiếm cách giải quyết vấn đề của hai cái lõi song sinh, chắc chắn rằng Voldemort hẳn đã tìm điều ấy ở vị phù thuỷ làm đũa già nua…nhưng mà hắn ta đã giết ông ấy, hiển nhiên không hỏi một câu hỏi nào về đũa phép cả.

Vậy thứ gì mà Voldemort đang cố tìm vậy? Tại sao với Bộ Pháp thuật và thế giới Phù thuỷ nằm dưới chân hắn, hắn lại đi tới nơi xa xôi, mục đích đạt được vật mà Gregorovitch từng có, và vật đó sau đó lại bị ăn trộm bởi một kẻ trộm vô danh?

Harry vẫn còn nhớ rõ khuôn mặt của chàng trai trẻ tóc vàng; nó rất dễ chịu, hoang dã; có một cái không khí mang cá tính Fred và George trong sự thành công bằng mưu mẹo ở anh ta. Anh ta nhảy tung ra khỏi khung cửa sổ như một con chim, và Harry đã thấy anh ta trước đây, nhưng nó không thể nghĩ ra là ở đâu…

Với cái chết của Gregorovitch, giờ người đang gặp nguy hiểm là tên kẻ trộm có khuôn mặt hài hước đó, và những suy nghĩ của Harry dừng lại ở người đó, khi tiếng ngáy của Ron bắt đầu vang lên từ chiếc giường phía dưới còn nó thấy mình lại lần nữa chìm dần vào trong giấc ngủ

Chương 15: Sự trả thù của yêu tinh.

Sáng sớm hôm sau, trước khi hai đứa kia thức dậy, Harry đã rời khỏi lều, đi lòng vòng khu rừng xung quanh để tìm cái cây già nua, lầm lì, lắm mấu lắm cành nhất mà nó có thể nhìn thấy. Dưới bóng tối của tán cây ấy, Harry chôn con mắt của thầy Moody và đánh dấu lại bằng cách dùng đũa phép khắc một cây thánh giá nhỏ lên vỏ cây. Không quá nhiều, nhưng nó cảm thấy như vậy thầy Moody sẽ thấy dễ chịu hơn là để con mắt thầy bị kẹt mãi sau cánh cửa của mụ Dolores Umbridge. Xong xuôi nó quay trở về căn lều, chờ cho bọn bạn ngủ dậy và bàn với tụi nó những việc tiếp theo phải làm.

Harry và Hermione cho rằng tốt nhất là không lưu lại quá lâu ở một địa điểm và Ron đồng ý, với điều kiện duy nhứt là bước di chuyển tiếp theo của chúng phải đến gần tầm với của một chiếc sandwich kẹp thịt. Vì vậy Hermione tẩy hết những bùa ngải mà cô nàng đã cài khắp vạt rừng trong khi Harry và Ron tẩy hết đám tàn tích còn trên mặt đất có thể làm lộ việc bọn nó đã cắm trại ở đây. Rồi mấy đứa độn thổ tới con đường vắng cách xa trung tâm một thị trấn buôn bán nhỏ.

Sau khi tụi nó dựng xong lều trên một bãi um tùm những cây bụi nhỏ và bao khu vực lại bằng nhiều bùa phép bảo vệ, Harry choàng áo khoác tàng hình rồi liều ra ngoài để đi tìm lương thực. Dĩ nhiên đó là ý tưởng đột xuất chứ không hề được nó lên kế hoạch từ đầu. Khi nó vừa vào được trong thị trấn thì bỗng xuất hiện một màn sương giá từ tràn tới, đi kèm cơn ớn lạnh bất thường, một bóng tối đột ngột bao phủ cả bầu trời khiến nó đứng chết chân.

“Nhưng cậu có thể gọi ra một vị thần hộ mệnh mạnh mẽ kia mà!” Ron cự lại ngay khi thấy Harry trở về căn lều tay không, thở dốc và hụt hơi kêu lên được đúng một tiếng: giám ngục.

“Mình không thể…tạo ra”, nó thở hổn hển, gập người vì cơn đau xóc ở hông. “Nó không tới…”

Bộ mặt sửng sốt và tràn trề thất vọng của hai đứa kia làm Harry tự thấy ngượng ngùng. Những kinh nghiệm gần như là ác mộng mỗi khi bọn giám ngục lướt đến với khoảng cách quá gần và sự cảm nhận một cái lạnh thấm sâu khiến nó thấy như ngưng thở, rồi cả những âm thanh gào thét vang vọng trong đầu, tất cả những thứ ấy làm nó không còn đủ sức để tự bảo vệ. Chúng tước đi hết khả năng tự kiểm soát của Harry. Nó chỉ còn biết chạy, chạy thục mạng, chạy xa ra khỏi những tên giám ngục không có tròng mắt đang trườn vào giữa những cư dân Muggles, những người không thể thấy chúng, nhưng lại cảm thấy được một nỗi tuyệt vọng vô hình chúng tạo ra ở bất kỳ nơi đâu chúng tới.

“Tổng kết lại, chúng ta vẫn không có thức ăn.”

“Im đi, Ron,” Hermione nạt. “Harry, chuyện gì đã xảy ra? Tại sao cậu lại nghĩ mình không thể gọi ra Thần hộ mệnh? Hôm qua cậu đã biến ra nó thật hoàn hảo cơ mà!”

“Mình không biết.”

Nó ngồi lún xuống một trong những cái ghế bành cũ kỹ của lão Perkin, cảm thấy xấu hổ hơn bao giờ hết. Nó sợ có gì đó không ổn ở bên trong nó. Ngày hôm qua dường như đã xa lắm rồi: Ngày hôm nay, một lần nữa nó lại là thằng bé 13 tuổi, đứa duy nhất ngất lịm đi trên chuyến tàu tốc hành Hơgwarts.

Ron đá cái chân ghế.

“Cái gì?”, nó hằm hè Hermione. “Mình đang chết đói! Tất cả những gì mình được nếm kể từ lúc chảy nửa số máu tới quắt queo chỉ là một đôi nấm dù!”

“Thì cậu cứ đi đi rồi chiến đấu với bọn giám ngục ấy”, Harry châm biếm.

“Mình sẽ đi, nhưng tay mình đang trong một mớ băng bó, nếu như cậu không nhìn ra!”

“Nó tiện đấy.”

“Nói như vậy là ý…?”

“Đúng rồi rồi!” Hermione reo lên, đập tay lên trán làm hai đứa kia giật mình im thin thít. “Harry, đưa mình cái dây chuyền! Nhanh lên,” cô bé giục rối, búng ngón tay cái tách khi thấy Harry ngây ra, “Cái Horcrux, Harry, cậu vẫn đeo nó kìa!”

Cô bé chìa tay ra khi Harry tháo cái dây chuyền ra khỏi cổ. Vào giây phút tách được sợi dây ra khỏi làn da, nó chợt cảm thấy tự do và nhẹ bẫng lạ thường. Trước khi 2 cảm xúc tuyệt vời ấy kịp tan đi, thậm chí nó còn không hề nhận ra cái ướt lạnh và cơn đói hành hạ khiến dạ dày nó co bóp dữ dội.

“Ổn hơn rồi chứ?” Hermione hỏi.

“Ờ, rất nhiều!”

“Harry,” cô bé nói, cúi thấp xuống đối diện Harry và dùng giọng điệu mà Harry liên tưởng tới cái cách người ta viếng thăm người đang ốm nặng, “Liệu cậu có cho rằng mình đang bị ám?”

“Cái gì? Không!”, nó trả lời một cách tự vệ, “Mình nhớ rõ mọi việc mình làm trong khi mình vẫn đeo nó mà. Nếu như mình bị ám, mình sẽ không thể nhớ được mình đã làm gì đúng không? Ginny từng nói rằng hồi đó có những khoảng thời gian con bé không thể nhớ nổi bản thân đã làm gì.”

“Hmm,” Hermione nói, nhìn xuống cái dây chuyền nặng chịch, “Chắc chúng mình không nên đeo nó, có thể để nó ở trong lều.”

“Tụi mình sẽ không đi khắp nơi và mặc cho cái Horcrux nằm đây đó lung tung”, Harry tuyên bố rành rọt. “Ta có thể mất nó, nếu nó bị ăn trộm…”

“Thôi được, thôi được,” Hermione nói, vòng sợi dây quanh cổ rồi cho vào trong áo. “Nhưng tụi mình sẽ thay phiên nhau đeo nó, làm vậy không ai phải giữ nó quá lâu.”

“Tuyệt”, Ron cáu kỉnh, “chúng ta bỏ qua chuyện đó được không, tới chuyện đi kiếm thức ăn rồi chứ?”

“Tốt thôi, nhưng bọn mình sẽ đi nơi khác để tìm,” Hermione nói, liếc thoáng qua Harry. “Chẳng có lý gì để tiếp tục ở nơi mà bọn giám ngục đang sục sạo khắp nơi.”

Cuối cùng bọn nó dựng trại qua đêm trên cánh đồng xa xôi thuộc về một trang trại cô quạnh. Ở đó chúng xoay sở được mấy quả trứng cùng chút bánh mỳ.

“Nó không phải đồ ăn trộm, phải không?” Hermione hỏi bồn chồn khi tụi nó ăn ngấu nghiến trứng bác với bánh mỳ. “Không phải trộm, nếu mình để lại tiền dưới ổ gà mái?”

Ron phồng mang trợn má vừa nhai vừa nói, “Er-my-nee, ‘ừng lo wá. ‘Oải mái!”

Và, rõ là dễ dàng thoải mái hơn khi tụi nó đã sung sướng ăn no đủ. Cuộc cãi vã về bọn giám ngục cũng nhanh chóng rơi vào quên lãng trong những tiếng cười đêm hôm đó và Harry cảm thấy vui vẻ, thậm chí là tràn trề hy vọng, lần đầu tiên trong ba đêm thức.

Đó là lần đầu tiên mấy đứa đối diện với sự thật: dạ dày đầy thì tinh thần phấn chấn, dạ dày rỗng thì vừa sầu vừa cáu lung tung. Harry ít bị bất ngờ bởi điều này hơn bởi nó từng phải chịu đựng những thời kỳ sém chết đói ở nhà Dursley. Hermione có lý do hợp lý để thấy buồn bã trong những đêm này, khi mà tụi nó không tìm bới được gì ngoài mấy quả mọng và bánh bích quy ỉu. Khả năng nhẫn nhịn của cô bé kém đi nhưng những lúc im lặng thì lại lỳ hơn. Ron, dù thế nào, vốn quen với ba bữa ăn ngon một ngày, ưu đãi từ mẹ hay từ những con gia tinh trường Hơgwart, nên khi bị đói thì đâm ra cáu bẳn và ngang ngược. Hễ khi nào tình trạng thiếu thức ăn trúng ngay phiên Ron phải đeo cái Horcrux là nó lại tỏ ra cực khó chịu.

“Đi đâu tiếp?” là điệp khúc quen thuộc của nó. Nó có vẻ không


đưa ra được bất kỳ ý kiến riêng nào nhưng luôn tin tưởng Harry và Hermione sẽ vạch ra được những kế hoạch trong lúc nó ngồi nghiền ngẫm về nguồn cung cấp thức ăn ít ỏi. Như niềm tin của Ron, Harry và Hermione dành hết những thời giờ vô ích để cố gắng lựa chọn địa điểm nào có khả năng tìm thấy những Horcrux khác và cách nào để tiêu diệt cái Horcrux mà chúng có. Những cuộc thảo luận ngày càng lặp đi lặp lại nhiều bởi chúng không có thêm được thông tin gì mới.

Vì cụ Dumbledore đã từng nói với Harry rằng cụ tin Voldemort sẽ cất giấu những Horcrux ở nơi nào quan trọng với hắn nên bọn nó cứ nhai đi nhai lại, như một kiểu kinh cầu nguyện thê lương, tất cả những chỗ mà nó biết Voldemort đã từng sống hay từng viếng thăm. Trại mồ côi nơi mà hắn được sinh ra và nuôi lớn; Hogwart, nơi hắn được đào tạo; tiệm Borgin and Burks, nơi hắn làm việc ngay sau khi tốt nghiệp; sau đó là Abania, nơi hắn tới trong những ngày tháng tha hương: Các địa điểm giúp chúng đặt cơ sở cho những suy đoán của mình.

“Nào mình cùng đi Albania. Không nên bỏ quá một buổi chiều để tìm kiếm trên cả nước Anh này,” Ron mỉa mai.

“Chẳng có gì ở đó hết. Hắn đã tạo xong năm trong số những Horcrux trước khi sống lưu vong và cụ Dumbledore tin chắc con rắn là cái thứ sáu,” Hermione nói. “Tụi mình biết con rắn không ở Albania, nó luôn ở cùng Vol…”

“Có phải mình từng nói cậu đừng dùng từ đó?”

“Tốt thôi! Con rắn luôn ở cùng với Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy…vui chưa?”

“Không hẳn,”

“Mình không nghĩ là hắn giấu bất kỳ thứ gì ở Borgin and Burkes,” Harry nhắc lại điểm mà nó đã đề cập tới rất nhiều lần trước đây đơn giản để phá vỡ sự yên lặng khó chịu. “Borgin and Burke là chuyên gia về những đồ vật hắc ám, họ sẽ nhận ra ngay một Horcrux.”

Ron ngoác mồm ngáp đểu. Kiềm chế nỗi thôi thúc mạnh mẽ muốn ném vào Ron cái gì đó, Harry nói lại: “Mình vẫn đoán hắn đã giấu gì đó ở Hogwarts”

Hermione thở dài. “Nhưng cụ Dumbledore đã phải tìm thấy nó rồi, Harry à!”

Harry nhắc lại lý lẽ mà nó tiếp tục đưa ra để ủng hộ giả thiết.

“Cụ Dumbledore nói trước mình rằng cụ chưa bao giờ nghĩ cụ biết mọi bí mật của Hogwart. Mình vẫn nói với các cậu, nếu như có một nơi mà Vol…”

“Oi!”

“Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy vậy!” Harry quát, sự cáu tiết vượt quá khả năng chịu đựng của nó. “Nếu có một nơi thực sự quan trọng với Kẻ-mà-ai-cũng-biết là ai đấy thì đó là Hogwarts!”

“Ôi, thôi nào,” Ron nhạo báng. “Trường học của hắn?”

“Phải, trường học của hắn! Đó là ngôi nhà thực sự đầu tiên của hắn, ở nơi mà hắn là đặc biệt, là tất cả đối với hắn, và thậm chí sau khi hắn đã rời đi…”

“Đấy là Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy chúng ta đang nói đến phải không? Không phải cậu à?” Ron dò xét. Nó đang giật mạnh sợi dây của Horcrux đeo quanh cổ. Harry thấy trỗi khao khát muốn lao ra chộp lấy và bóp cổ Ron.

“Cậu nói với tụi mình Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy đã đề nghị cụ Dumbledore cho hắn một công việc sau khi hắn rời trường,” Hermione nói.

“Đúng thế,” Harry đáp.

“Và cụ Dumbledore nghĩ hắn chỉ muốn quay lại để cố gắng tìm kiếm thứ gì đó, có thể là đồ vật của một nhà sáng lập khác, để tạo ra một Horcrux?”

“Uh,” Harry nói.

“Nhưng hắn không được nhận công việc đó, phải không?” Hermione nói. “Như vậy hắn không bao giờ có cơ hội để tìm thấy một đồ vật của nhà sáng lập ở đó và giấu nó trong trường!”

“Đồng ý, vậy..” Harry nói, chịu thất bại. “Quên Hogwarts đi.”

Không có một sự chỉ dẫn nào khác, chúng đi tới London, trốn dưới lớp áo khoác tàng hình, tìm kiếm ở trại trẻ mồ côi, nơi mà Voldemort từng lớn lên. Hermione trộm được từ thư viện những ghi chép cho thấy địa danh này đã bị phá huỷ rất nhiều năm trước đây. Tụi nó lại lần theo địa chỉ và thấy một khối nhà lớn dành làm văn phòng.

“Chúng mình có thể thử đào xuống móng của nó?” Hermione gợi ý không thật tâm cho lắm.

“Hắn sẽ không giấu một Horcrux ở đây,” Harry nói. Nó biết ngay từ đầu là thế. Trại mồ côi là nơi hắn quyết tâm thoát khỏi; hắn sẽ không bao giờ cất giấu một phần linh hồn mình ở đây. Cụ Dumbledore từng chỉ cho Harry thấy Voldemort theo đuổi những mục tiêu có quyền uy hay thần bí; góc tối xám xịt này của London khác xa so với những gì ta có thể tưởng tượng về Hogwarts, về Bộ pháp thuật hay về những toà nhà kiểu Gringotts, ngân hàng phù thuỷ, với những cánh cửa mạ vàng và sàn lát cẩm thạch.

Thậm chí không với một ý tưởng mới mẻ nào, chúng vẫn tiếp tục di chuyển qua miền đồng quê, mỗi đêm dựng lều ở một nơi khác nhau để giữ an toàn. Sáng nào chúng cũng rà lại để chắc chắn mình không bỏ lại manh mối nào, rồi lên đường kiếm một chốn vắng vẻ, hẻo lánh, độn thổ băng qua nhiều khu rừng hơn, qua những vách đá âm u, tới những cánh đồng hoang màu tía, những thoải núi tưng bừng hoa kim tước, thậm chí có lần là một vịnh kín đáo trải đầy đá cuội. Cứ mỗi mười hai tiếng, tụi nó lại thay phiên nhau mang cái Horcrux, giống như thể mấy đứa đang chơi trò truyền đồ vật vòng quanh, lúc nào cũng lo ngay ngáy âm nhạc dừng lại đúng lượt mình, vì phần thưởng cho tụi nó là mười hai tiếng của nỗi sợ hãi và lo âu tăng vọt.

(chú thích: trò chơi truyền cái gói: nhiều người xếp thành vòng tròn, truyền tay một cái gói nhỏ, trong gia điệu của một bản nhạc. Nhạc dừng ở lượt của người nào, người đấy được nhận phần thưởng trong cái gói đó. -Johnny)

Vết sẹo của Harry vẫn đau dai dẳng. Nó càng đau nhiều hơn, Harry để ý, mỗi khi Harry phải đeo cái Horcrux. Thỉnh thoảng nó không ngăn nổi mình phản ứng lại với những cơn đau.

“Cái gì? Cậu nhìn thấy cái gì?” Ron hỏi gặng, bất kỳ khi nào nó để ý thấy Harry nhăn nhó.

“Một khuôn mặt,” Harry nói khẽ, lần nào cũng thế. “Vẫn là khuôn mặt đó. Kẻ đã cướp đồ của Gregorovitch.”

Và rồi Ron lại quay đi, chẳng cố công che giấu nỗi thất vọng. Harry thừa biết Ron mong mỏi nó hướng về phía những tin tức từ gia đình Weasley hay từ những thành viên còn lại trong Hội phượng hoàng. Nhưng xét cho cùng, Harry không phải cái ăng ten vô tuyến, nó chỉ nhìn được những gì Voldemort nghĩ đến tại thời điểm đó, chứ không thể chuyển kênh về bất kỳ thứ gì nó thích. Có vẻ như Voldemort đã nhìn chăm chú không dứt mắt vào chàng trai lạ với khuôn mặt vui vẻ kia, mà Harry biết rõ là Voldermort cũng chẳng biết hơn nó là mấy về tên tuổi và vị trí của anh ta. Từ hồi cái sẹo cứ liên tục đau như thiêu đốt và hình ảnh chàng trai tóc vàng hoe vui vẻ trôi nổi như trêu ngươi tồn tại trong ký ức nó, Harry đã học được cách chế ngự bất kỳ dấu hiệu nào của sự tổn thương hay bực bội khi hai đứa kia không tỏ thái độ gì khác ngoài sự sốt ruột mỗi lần nó đề cập tới tên cướp. Nó hoàn toàn không trách được chúng, chúng đã quá nản việc trông mong vào những Horcrux.

Khi mà từng ngày dần trôi qua thành nhiều tuần, Harry bắt đầu nghi ngờ rằng Hermione và Ron đã có những cuộc nói chuyện đằng sau lưng về nó. Vài lần bọn nó đột ngột dừng nói chuyện khi Harry bước vào trong lều, và 2 lần khi nó tình cờ nhìn sang thấy bọn nó đang hội ý to nhỏ phía xa xa, chụm đầu vào nhau và thảo luận nhanh; cả 2 lần chúng đều im bặt khi phát hiện ra Harry đang nhìn hướng về mình và vội vã tỏ ra đang bận đi lượm củi hay kiếm nước.

Harry không ngăn nổi mình nghi ngờ rằng bọn chúng có lẽ đã đồng ý với nhau đi tiếp chuyến đi mà giờ đây chỉ như một chuyến ngao du vô phương, vô vị bởi chúng nghĩ Harry còn có một kế hoạch bí mật để kể cho bọn nó biết đúng lúc. Ron chẳng thèm giấu diếm tâm trạng tệ hại, và Harry bắt đầu sợ rằng Hermione cũng thấy thất vọng vì sự lãnh đạo tồi tệ của nó. Trong cơn tuyệt vọng, nó vắt óc nghĩ tới những vị trí xa hơn có thể cất giấu Horcrux; nhưng loé lên trong đầu nó quanh đi quẩn lại chỉ là Hogwarts, và vì không đứa nào trong 2 đứa kia nghĩ giống nó nên nó đành thôi nghi ngờ điều đó.

Khi tụi nó đi tới vùng thôn quê cũng là lúc mùa thu cuộn mình ngang qua đó. Tụi nó cắm trại trên mặt đất đầy lá vàng rơi. Màn sương từ bọn giám ngục biến ra hoà vào lớp sương phủ dày của thiên nhiên; mưa với gió làm tăng phần trắc trở. Thực tế thì khả năng nhận biết nấm ăn được ngày càng tiến bộ của Hermione cũng không bù nổi nỗi buồn bị cô lập, thiếu bạn đồng hành, hay mù thông tin về cuộc chiến chống lại Voldemort của tụi nó.

“Mẹ mình,” Ron nói trong đêm, như thể bọn nó đang ngồi trong lều bên bờ sông xứ Wales, “có thể lôi ra nhiều đồ ăn ngon từ thinh không.”

Nó đăm chiêu chọc chọc miếng cá bị đốt quá lửa cháy thành than trong cái đĩa của mình. Harry tự động liếc xuống cổ của Ron và nhìn, như nó mong đợi, chuỗi Horcrux đang lấp lánh sáng. Nó gắng gạt đi nỗi thôi thúc được nguyền rủa Ron, thái độ của cậu ta sẽ tiến bộ hơn khi bỏ được cái dây chuyền ra.

“Mẹ cậu không thể biến ra thức ăn từ không khí,” Hermione nói, “không ai được quyền. Thức ăn là điều khoản đầu tiên trong năm điều Cấm căn bản theo luật của Gamp về Thuật Biến-”

“Ồ, cậu nói được tiếng Anh mà, phải chứ?” Ron nói, cậy con cá ra khỏi răng.

“Không thể hoá phép đồ ăn ra từ nơi không có gì hết! Cậu có thể triệu tập nó từ xó nào mà cậu biết, thay đổi hình dạng nó, làm tăng số lượng lên nếu cậu có vài…”

“Vậy đừng nghĩ tời việc làm tăng số lượng cái này, nó tởm quá” Ron nói.

“Harry bắt con cá và mình đã cố hết sức với nó! Phải lưu ý cậu, mình luôn là người duy nhất phải chuẩn bị thức ăn, bởi vì mình là con gái, mình tin là như vậy!”

“Không, bởi vì cậu được tin là người dùng phép giỏi nhất!” Ron đáp ngay lập tức.

Hermione nhảy dựng lên, một xiên cá nướng cháy rơi khỏi đĩa của cô bé xuống đất.

“Ngày mai cậu có thể tự làm công việc nấu nướng, Ron, cậu có thể đi tìm nguyên liệu và cố gắng và biến nó thành cái gì đó nuốt được, và mình sẽ ngồi đây và bẹo mặt mình và rên rỉ và mình có thể thấy cậu…”

“Im đi!,” Harry nói, đứng bật dậy và nắm chặt cả hai tay. “Im ngay đi!”

Hermione nhìn như thể vừa bị xúc phạm.

“Làm thế nào cậu có thể về phía cậu ấy, cậu ta còn chưa từng nấu ăn…”

“Hermione, yên lặng, mình nghe có tiếng người!”

Nó khó nhọc dỏng tai lên nghe, vẫn giơ cao tay, cảnh cáo bọn kia ngừng nói chuyện. Và rồi, chìm trong tiếng nước chảy dâng tràn của dòng sông tối đen bên cạnh chúng, Harry nghe thấy những giọng nói một lần nữa. Nó nhìn vào cái kính mách lẻo, nó không hề có động tĩnh.

“Cậu đã đặt thần chú ù lỗ tai quanh tụi mình rồi chứ?” nó thì thầm hỏi Hermione.

“Mình đặt tất cả rồi,” Hermione thì thào trả lời, “Ù lỗ tai, thần chú không-Muggle và thần chú tan ảo ảnh, tất cả. Họ không nên nghe thấy tụi mình, cho dù họ là ai chăng nữa.”

Tiếng cọ xát nặng nề, cộng thêm âm thanh của lạo xạo những viên sỏi rơi và tiếng khô khốc của nhành cây gãy cho chúng biết có vài người đang trèo xuống dốc, cái dốc dựng thẳng đứng xuống ngay chỗ tụi nó cắm trại. Cả ba rút đũa phép ra, chờ đợi. Bùa phép bọn chúng đã biến ra xung quanh lẽ ra phải có hiệu lực, trong khoảng thời gian bóng đêm chế ngự tuyệt đối, bảo vệ chúng khỏi sự chú ý của dân Muggle và những pháp sự phù thuỷ thường. Nếu kia là bọn tử thần thực tử, có khi đây sẽ là lần thử đầu tiên khả năng phòng vệ của tụi nó trước phép thuật hắc ám.

Những tiếng nói to dần nhưng không nghe được hơn là mấy khi nhóm đàn ông đi tới bờ sông. Harry ước chừng chỗ nó cách bọn nó hơn 20 bước chân, nhưng tiếng chảy ầm ầm như thác đổ của con sông khiến nó không dám chắc. Hermione vồ lấy cái túi và bắt đầu lục lọi; vài giây sau cô nàng lôi ra ba cái bành trướng nhĩ và quăng cho Harry, Ron mỗi đứa một cái. Hai đứa vội vàng gài vào tai đầu dây có màu trông màu thịt và thả cho đầu dây kia tuồn ra ngoài cửa lều.

Trong vài giây, Harry nghe thấy giọng một người đàn ông đang mệt lử.

“Chắc phải có vài con con cá hồi ở đây, hay anh vẫn nghĩ còn quá sớm cho mùa săn bắt? Accio Cá hồi!”

Thấy rõ có tiếng nước bắn tung toé và tiếng cá quẫy hòng chống lại bàn tay bắt nó. Ai đó lẩm bẩm tán thưởng. Harry ấn sâu cái bành trường nhĩ vào tai: Bỏ qua tiếng nước chảy róc rách, nó nghe được thêm vài giọng nói nữa, nhưng họ không dùng tiếng Anh hay bất kỳ thứ tiếng người nào mà nó biết. Thứ ngôn ngữ hỗn độn chói tai, một chuỗi huyên náo, phát ra từ trong cuống họng, và có vẻ như có 2 người cùng nói, một phát âm chậm và trầm hơn giọng kia chút.

Ánh lửa nhảy múa trên tấm vải bạt của căn lều; những cái bóng cao lớn in trên vách lều. Mùi hấp dẫn của cá hồi nướng lan tỏa trong không khí từ phía bọn họ. Sau đó vang đến tiếng leng keng của dao nĩa và người đàn ông đầu tiên lại lên tiếng.

“Đây, Gripphook, Gornuk.”

“Yêu tinh”‘ Hermione khẽ nói và Harry gật đầu.

“Cảm ơn”, những con yêu tinh đồng thanh đáp.

“Vậy, các anh trốn chạy bao lâu rồi?” một giọng nói êm dịu và thân thiện vang lên; Harry ngờ ngợ đã nghe giọng nói này ở đâu đó. Một giọng nói êm dịu và thân thiện vang lên từ người đàn ông có cái bụng to tròn và khuôn mặt vui vẻ, Harry ngờ ngợ đã nghe giọng nói này ở đâu đó

“Sáu hay bảy tuần gì đó.. tôi quên rồi” người đàn ông mệt mỏi đáp. “Kết bạn với Griphook vào vài ngày đầu, không lâu sau thì nhập nhóm cùng với Gornuk. Thật tuyệt khi có bạn đồng hành. Có một khoảng im lặng nhường chỗ cho tiếng dao nĩa và những lon đồ hộp được nhặt lên và đặt xuống đất.

“Cái gì đã khiến anh rời đi thế, Ted?” người đàn ông tiếp tục.

“Vì biết rằng bọn chúng đang đến bắt tôi”, Ted nhẹ nhàng đáp lại, và ngay tức thì Harry biết người đó là ai: cha của cô Tonk. “Tuần trước khi nghe tin bọn tử thần thực tử đang ở đây, tôi quyết định tốt hơn hết là chạy trốn. Vì lòng tự trọng, tôi từ chối đăng ký như một Muggle, mọi người thấy đó, vì thế tôi biết vấn đề chỉ là thời gian mà thôi, thế nào rồi cũng phải rời đi. Vợ tôi không sao, cô ấy thuần chủng. Sau đó tôi gặp Dean ở đây, gì nhỉ, vài ngày trước, phải không con trai?”

“Vâng,” một giọng nói khác vang lên. Harry, Ron và Hermione trố mắt nhìn nhau, im lặng nhưng giữa chúng có một sự phấn khích. Chúng nhận ngay ra giọng của Dean Thomas, một người bạn cùng nhà Gryffindor.

“Gốc Muggle hả?” người đàn ông đầu tiên hỏi.

“Không chắc.” Dean nói”Cha bỏ mẹ con từ khi tôi còn nhỏ. Thế nhưng con không có bằng chứng nào chứng tỏ ông là một pháp sư.”

Im lặng một lúc, chỉ còn tiếng nhai, cho tới khi Ted lại lên tiếng

“Phải nói thế này, tôi rất ngạc nhiên khi tình cờ gặp anh, Dirk. Vui mừng, nhưng ngạc nhiên. Có lời đồn anh bị bắt.”

“Đã bị” Dirk nói. “Tôi trốn thoát khi đang bị áp giải nửa đường đến Azkaban. Vô hiệu hóa Dawlish, rồi chôm cây chổi của hắn. Dễ hơn anh tưởng đấy; Tôi không ngờ hắn lại tệ thế. Có lẽ đã bị ếm. Nếu như vậy, tôi rất hân hạnh bắt tay kẻ nào làm điều đó, hắn chắc chắn đã cứu mạng tôi.”

Lại một khoảng im lặng, chỉ có tiếng lửa nổ lép bép và tiếng sóng sông vỗ. Sau đó Ted nói “Vậy hai anh gặp nhau ở đâu? Tôi, à…, có một ấn tượng rằng toàn bộ yêu tinh đều phục vụ cho Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy.”

“Anh đã có một ấn tượng sai lầm.” con yêu tinh có giọng nói cao hơn thốt lên. “Chúng tôi không ở phe nào cả. Đây là cuộc chiến tranh giữa những pháp sư.”

“Sau đó làm thế nào anh trốn được?”

“Tôi thấy rằng làm thế là khôn ngoan.” con yêu tinh có giọng trầm hơn nói. “Từ chối thứ mà tôi nhìn nhận như là một lời yêu cầu xấc láo, tôi có thể thấy rõ sự an toàn của bản thân bị đe dọa.”

“Chúng yêu cầu các anh làm gì?” Ted hỏi.

“Những công việc hạ thấp đi phẩm giá của loài chúng tôi”, con yêu tinh đáp lại, giọng nói của nó có vẻ hung dữ và ít tính người hơn khi nó nói “Tôi không phải là gia tinh.”

“Còn anh thì sao, Griphook?”

“Lý do tương tự,”con yêu tinh giọng cao nói. “Gringotts không còn dưới sự kiểm soát của chúng tôi nữa.Tôi không công nhận sự cai trị của bất kì pháp sư nào.”

Nó thì thầm thêm một vài lời bằng ngôn ngữ Gobbledegook,và Gornuk phì cười.(Chú thích (ND):

Gobbledegook (theo en.wikipedia.org): 1 thuật ngữ tiếng Anh dùng để miêu tả những ngôn ngữ nghe thì tưởng là một thứ tiếng nhưng thực chất là vô nghĩa. Đôi khi được dùng như biệt hiệu để gọi cho những người thốt ra âm thanh hay thứ tiếng khó hiểu. Cũng có khi có nghĩa là lối nói dài dòng theo nghi thức, nghề nghiệp hoặc kiểu nói ba hoa. Những người có thành kiến hơn thì dùng thuật ngữ này với ý chỉ cái gì đó đang bị ấn tượng bới cách nói quá phức tạp, rắc rối. Gobbledegook không mang ý nghĩa như một thứ tiếng nước ngoài. Nó được quy cho những cách viết vốn đã lộn xộn hoặc những người không thể nói rành rọt, dễ hiểu.)

“Đùa gì thế?” Dean hỏi.

“Anh ấy nói,” Drik trả lời, “có một số thứ mà pháp sư cũng không nhận ra.”

Mọi người im lặng

“Tôi không thấy.” Dean nói.

“Tôi đã có một sự trả thù nho nhỏ trước khi chuồn đi,” Griphook nói bằng tiếng Anh.

“Tốt đấy chú – ơ yêu tinh, tôi nên nói thế,” Ted nhanh chóng bổ sung “Tôi đoán anh bạn đã khóa tên Tử Thần Thực Tử vào một trương mục cũ kỹ bảo mật cao nào đó chăng?”

“Nếu tôi làm, thanh kiếm sẽ không giúp được hắn thoát ra đâu,” Griphook trả lời.

Gornuk lại cười và ngay cả Dirk cũng cười thầm.

“Dean và tôi đã bỏ lỡ điều gì à?,” Ted nói.

“Vậy đó là Severus Snape, mặc dù hắn không biết,” Griphook nói và cả hai con yêu tinh đều ré những nụ cười hiểm độc. Trong căn lều Harry thở gấp trong sự phấn khích: Nó và Hermione nhìn nhau chằm chằm, căng tai lên nghe ngóng.

“Anh chưa nghe về điều đó à, Ted?” Drik hỏi,”Về những đứa trẻ đang cố đánh cắp thanh kiếm của Gryffindor ra khỏi văn phòng của Snape ở Hogwarts ấy?”.

Tưởng như có dòng điện đánh xuyên qua Harry, từng dây thần kinh của nó đang rung lên bần bật khiến cho nó đứng như thể đã mọc rễ vậy.

“Chưa nghe một từ,” Ted nói. “Không phải trên tờ Nhật báo tiên tri à?”

“Không bao giờ,” Dirk cười lớn. “Anh Griphook đây cho tôi biết, anh ấy nghe được tin này từ Bill Weasley, một anh chàng làm ở nhà băng. Một trong số lũ trẻ đã cố lấy thanh kiếm là em gái Bill.”

Harry liếc qua Hermione và Ron, cả hai đứa nó đều túm lấy cái bành trướng nhĩ như giữ nguồn sống của mình.

“Con bé và hai đứa bạn nữa đột nhập vào văn phòng của Snape và đập vỡ cái hộp kính, nơi mà hình như Snape đã để thanh kiếm. Hắn bắt được bọn trẻ khi chúng đang lén mang thanh kiếm xuống cầu thang.”

“Ah, cầu Chúa phù hộ cho chúng,” Ted nói. “Làm sao bọn nhóc lại nghĩ bọn chúng đủ khả năng dùng thanh kiếm để đâm Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy hay Snape nhỉ?”

“Thế đấy, cho dù bọn nhóc muốn làm gì với thanh kiếm thì Snape cũng đã quyết định thanh kiếm không được an toàn ở nơi hắn đã để nó,” Drik nói. “Vài ngày sau, một lần nữa hắn nhận được chỉ thị tương tự từ Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy, Tôi hình dung hắn đã gửi nó xuống lòng London vào Gringotts rồi.”

Lũ yêu tinh lại phá ra cười.

“Tôi vẫn không thấy điều gì đáng buồn cười ở đây cả,” Ted nói.

“Nó là đồ giả,” Griphook rít lên

“Thanh kiếm của Gryffindor!”

“Tất nhiên. Nó là một bản sao – một bản sao tuyệt vời, đồ thật – nhưng là đồ pháp sư-tạo. Bản gốc được rèn hàng thế kỷ trước bởi yêu tinh và đương nhiên sở hữu những phẩm chất đặc biệt chỉ có ở vũ khí yêu tinh tạo ra: Thanh kiếm thật của Gryffindor đang ở đâu chăng nữa thì cũng không phải dưới hầm nhà băng Gringotts”

“Ra thế,” Ted nói.”Và tôi chắc anh không phiền để kể cho bọn Tử Thần Thực Tử về điều này?”

“Tôi thấy chẳng có lý do gì để gặp rắc rối với chúng về cái thông tin đó,” Griphook nói một cách tự mãn, bây giờ cả Ted và Dean cùng cười với Gornuk và Dirk.

Ở trong lều, Harry nhắm mắt lại, mong chờ ai đó hỏi câu hỏi mà nó cần được trả lời, và sau một phút mà kéo dài như mười phút, Dean cuối cùng cũng giúp Harry: xét cho cùng nó cũng từng là (Harry nhớ lại với một cú xóc nhẹ) bạn trai cũ của Ginny.

“Điều gì đã xảy ra với Ginny và những người khác? Mấy người đã cố trộm thanh kiếm ấy?”

“Ôi, bọn chúng bị phạt, một cách ác nghiệt,” Griphook nói thờ ơ

“Bọn trẻ không sao chứ?” Ted hỏi vội.”Ý tôi là, gia đình Weasley không muốn thêm một đứa trẻ nào bị thương nữa, phải không?”

“Bọn chúng không phải chịu tổn thương nào nghiêm trọng, đó là cho đến khi tôi biết,” Griphook nói

“May cho chúng,” ông Ted nói. “Với thành tích giết người của Snape tôi nghĩ bọn chúng nên tự hào vì mình vẫn còn sống.”

“Anh tin câu chuyện đó, phải không,Ted?” Drik hỏi.”Anh tin rằng Snape đã giết Dumbledore?”

“Tất nhiên tôi tin,” Ted nói. “Anh không ngồi đây và chuẩn bị nói với tôi rằng anh không tin bất cứ điều gì Potter đã làm?”

“Thời nay, thật khó để biết nên


tin hay không tin điều gì,” Dirk lẩm bẩm.

“Cháu biết Harry Potter.” Dean nói. “Và cháu nghĩ rằng bạn ấy thật sự là – Người Được Chọn, hay bất kỳ thứ gì mọi người muốn gọi.”

“Đúng thế, rất nhiều người muốn tin vào điều đó, con trai.” Dirk nói, “bao gồm cả ta. Nhưng cậu ta đang ở đâu? Đang chạy trốn, như mọi việc có vẻ là thế. Và nếu chú mày nghĩ cậu ta biết bất kỳ điều gì hơn chúng ta, hay cậu ta được coi như bất kỳ điều gì đặc biệt, thì cậu ta nên ra ngoài đó và chiến đấu, tập hợp những lực lượng kháng chiến thay vì trốn tránh. Chú mày biết không, tờ Tiên Tri đã có vài nhận xét khá hay về cậu ta…”

“Tờ Tiên Tri?” Ted chế giễu. “Anh đáng bị xỏ mũi nếu như anh tiếp tục đọc cái đống rác rưởi đó, Dirk. Anh muốn sự thật, hãy đọc Kẻ Mách Lẻo.”

Thình lình vang lên hàng loạt tiếng nấc và nôn ọe, cộng thêm vào đó là những tiếng đấm lưng thùm thụp; căn cứ vào những âm thanh đó thì có vẻ như Dirk vừa mắc phải một khúc xương cá. Cuối cùng ông ta nói lắp bắp. “Kẻ Mách Lẻo? Cái đống giẻ rách điên khùng của Xeno Lovegood ấy hả?”

“Dạo này nó không còn điên khùng đâu.” Ted nói. “Anh sẽ muốn xem qua nó đấy. Xeno cho in tất cả những gì mà tờ Tiên Tri đang lờ đi, tất nhiên là không bàn tới những con Snorkacks sừng gãy ở số xuất bản gần đây. Phải mất bao lâu họ mới bắt giữ lão ấy có được nó, chủ tâm, tôi không biết. Nhưng Xeno tuyên bố, tại trang đầu của mỗi số xuất bản, rằng mọi pháp sư chống lại Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy nên giúp đỡ Harry Potter- ưu thế số một của bọn họ lúc này.”

“Thật khó để giúp một cậu bé mà dường như đã tan biến khỏi Trái Đất,” Dirk nói.

“Nghe này, sự thật thì bọn chúng vẫn chưa tóm được cậu ấy vì nếu Harry bị tóm thì đã có cả một bản thông báo ăn mừng rồi,” Ted nói. “Tôi thấy vui khi nhận thấy vài điều từ cậu ấy; Đó là những gì mà chúng ta đang cố làm: sống tự do, có phải không?”

“Vâng, có lẽ như thế, nhưng anh đã bỏ sót một chi tiết ở đây,” Drik nói một cách nặng nề. “Với cả một Bộ pháp thuật và những kẻ thu thập thông tin đang theo đuôi cậu ta, tôi thấy cậu ta vẫn chưa bị bắt bây giờ thôi. Thiết nghĩ ai dám nói rằng cậu ta không bị bắt và giết một cách bí mật?”

“Ôi, đừng nói như thế, Drik,” Ted lầm bầm.

Có một khoảng im lặng dài được lấp đầy bởi những tiếng dao nỉa.Và khi bọn họ trò chuyện lại thì chủ đề lại xoay quanh việc họ có nên ngủ lại bên bờ sông hay trở vào rừng. Nhận thấy rằng cây cội sẽ giúp ngụy trang tốt hơn, họ dập tắt lửa, leo trở lại con dốc, tiếng chuyện trò nhỏ dần.

Harry, Ron và Hermione cuộn cái bành trướng nhĩ lại. Lúc nãy chính Harry rất muốn phá vỡ sự im lặng thì giờ đây chỉ thốt lên được vài từ, “Ginny-Thanh kiếm-”

“Mình biết rồi!” Hermione nói.

Cô nàng lục lọi cái túi nhỏ xíu, lúc này nó đang được kẹp ngay dưới cánh tay phải của cô.

“Đây…chúng ta có đây…” cô nói với hàm răng cắn chặt, và lôi ra một thứ gì đó nằm thật sự sâu trong chiếc túi. Một góc của khung tranh lộng lẫy bắt đầu chậm chạp xuất hiện. Harry nhanh chóng quay ra giúp cô. Ngay khi chúng lấy được bức chân dung trống rỗng của cụ Phineas Nigellus ra khỏi cái túi, Hermione chí ngay cây đũa phép vào bức tranh, sẵn sàn để ếm bùa bất cứ lúc nào.

“Nếu có ai đó tráo thanh kiếm thật khi nó còn trong văn phòng của thầy Dumbledore,” cô nhấn mạnh, trong khi bọn chúng đặt bức chân dung tựa vàơ thành căn lều, “Cụ Phineas Nigellus ắt hẳn đã thấy chuyện gì xảy ra, ông ấy được treo ngay bên cạnh cái kệ!”

“Trừ khi ông ta ngủ quên.” Harry nói, nhưng vẫn nín thở khi Hermione quỳ trước cái khung tranh trống rỗng, chỉ đũa phép thẳng vào chính giữa tranh, thông giọng rồi cất lời:

“Ơ-Phineas? Phineas Nigellus?”

Không có động tĩnh gì.

“Phineas Nigellus?” Hermione kêu lần nữa. “Giáo sư Black? Chúng cháu có thể nói chuyện với cụ được không? Làm ơn đi mà?”

“Làm ơn luôn đồng nghĩa với giúp đỡ,” một giọng nói lạnh lẽo nghiêm khắc vang lên và Phineas Nigellus nhẹ nhàng đi vào chân dung của cụ. Ngay lập tức Hermione hét:

“Obscura!” (Bịt Mắt!)

Một dải bịt mắt đen xuất hiện trên đôi mắt sẫm màu, lanh lợi của cụ Phineas Nigellus, làm cho cụ đụng đầu phải khung tranh và la lên đau đớn.

“Sao…sao mà tui bây dám…dám?”

“Cháu rất lấy làm tiếc, Giáo sư Black, “Hermione nói, “nhưng đó là sự phòng ngừa cần thiết!”

“Tháo cái vật hôi hám thừa thãi này đi ngay! Ta nói là tháo nó ra! Bọn bây đang phá hoại một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời! Ta đang ở đâu? Có chuyện gì đang xảy ra thế này?”

“Đừng bận tâm đến chúng con đang ở đâu.” Harry nói. Cụ Phineas Nigellus sững người lại và từ bỏ nỗ lực gỡ cái bịt mắt mới được vẽ thêm vào.

“Đây có thể là giọng nói của ngài Potter trốn chạy không nhỉ?”

“Có lẽ thế,” Harry nói, biết rõ điều đó sẽ giữ cho Phineas Nigellus thấy thích thú. “Chúng tôi có hai câu hỏi cho cụ – về thanh kiếm của Gryffindor.”

“À.” Phineas Nigellus nói, gắng sức ngó nghiêng để thấy được Harry, “Đúng thế. Cái con bé ngốc nghếch đó đã hành động không khôn ngoan chút nào…”

“Đừng có nói về em tôi như thế,” Ron nói cộc lốc. Cụ Phineas Nigellus nhướn lông mày lên.

“Ai ở đó nữa thế?” cụ hỏi, xoay cái đầu từ phía này sang phía khác. “Ta không ưa mồm mép của cậu đâu! Con bé và bạn của nó cực kỳ ngu xuẩn, trộm đồ của hiệu trưởng.”

“Bọn họ không trộm,” Harry nói. “Thanh kiếm không thuộc về Snape.”

“Nó thuộc về ngôi trường của Snape.” Phineas Nigellus. “Chính xác thì con bé nhà Weasley đã nhận được gì nào? Nó đáng bị trừng phạt, giống như thằng ngố Longbotton và con bé Luna khùng!”

“Neville không ngố và Luna cũng không khùng!” Hermione nói.

“Ta đang ở đâu?” cụ Phineas Nigellus nhắc lại, lại bắt đầu vật lộn với cái khăn bịt mắt. “Bọn bay mang ta đến đâu đây? Sao phải chuyển ta ra khỏi căn nhà có các bậc tiền bối khác?”

“Đừng quan tâm chuyện đó nữa! Snape đã trừng phạt Ginny, Neville và Luna như thế nào?” Harry khẩn khoản hỏi.

“Giáo sư Snape gửi bọn chúng tới khu rừng cấm, làm vài việc cho đồ vụng về Hagrid.”

“Bác Hagrid không phải đồ vụng về!” Hermione rít lên.

“Chắc Snape tưởng đó là hình phạt,” Harry nói, “Ginny, Neville và Luna ắt hẳn có cả trận cười bể bụng với Hagrid. Khu rừng cấm…Họ đã từng đối mặt với nhiều điều tồi tệ hơn cả khu rừng cấm, làm như ghê lắm vậy!

Harry thở phào nhẹ nhõm; ít nhất thì nó cũng đã tưởng tượng ra những hình phạt khủng khiếp, như lời nguyền Tra Tấn.

“Những gì chúng cháu thực sự muốn biết, thưa giáo sư Black, đó là cuối cùng thì liệu có ai đó khác đã, uhm, lấy thanh kiếm đi? Có thể để đánh bóng hay…gì đó chăng!”

Cụ Phineas Nigellus lại dừng cuộc vật lộn để giải thoát đôi mắt và cười khẩy.

“Gốc Muggle,” cụ nói, “Vũ khí yêu tinh-tạo thì không cần phải đánh bóng, con bé khờ dại. Bạc của yêu tinh sẽ đẩy xa những bụi bặm trần tục, chỉ hấp thụ những gì làm tăng sức mạnh cho chúng.”

“Đừng gọi Hermione là con bé khờ dại,” Harry nói.

“Ta mệt với cái trò cãi lếu của bọn bay rồi”, cụ Phineas Nigellus nói, “có lẽ đã tới lúc ta nên trở về văn phòng hiệu trưởng?”

Vẫn bị bịt mắt, cụ mò mẫm lần ra tới khung tranh, cố cảm nhận con đuờng giúp cụ thoát khỏi bức tranh và trở về khung tranh kia được đặt tại Hogwarts. Harry chợt nảy ra:

“Thầy Dumbledore! Ngài có thể đưa thầy Dumbledore tới chỗ chúng cháu được không?”

“Nhắc lại lần nữa nghe coi?” cụ Phineas Nigellus hỏi.

“Bức chân dung của cụ Dumbledore – thầy có thể đưa thầy ấy đi cùng, tới đây, đi vào bức chân dung của thầy?”

Cụ Phineas Nigellus quay mặt về phía phát ra tiếng của Harry.

“Hiển nhiên những kẻ gốc Muggle không phải là những kẻ duy nhất ngu ngốc. Bức chân dung của trường Hogwart có thể đi thăm lẫn nhau, nhưng không thể đi ra khỏi phạm vi lâu đài. Thầy Dumbledore không thể tới đây cùng ta, và sau những gì ta được đối đãi hôm nay, cam đoan với các ngươi là ta sẽ không bao giờ làm cuộc viếng thăm thứ hai!”

Hơi ỉu xìu, Harry dõi theo bức hình cụ Phineas đang gắng gấp đôi để rời được khỏi khung tranh.

“Giáo sư Black,” Hermione nói, “ngài có thể nói cho chúng cháu biết, làm ơn, lần cuối thanh kiến được đưa ra khỏi hòm là khi nào? Ý cháu là trước cả khi Ginny lấy nó đi ấy?”

Cụ Phineas khịt mũi sốt ruột.

Ta tim rằng lần cuối ta nhìn thấy thanh gươm của Gryffindor rời khỏi hòm là khi giáo sư Dumbledore dùng nó để đập vỡ một chiếc nhẫn.”

Hermione quay phắt sang nhìn Harry. Không dứa nào dám nói gì thêm trước cụ Phimeas Nigellus khi cuối cùng cụ cũng xoay sở để tìm ra được vị trí chỗ đi ra.

“Vậy, chúc các trò ngủ ngon,” cụ nói với một chút gắt gỏng và bắt đầu di chuyển ra khỏi khung cảnh. Khi của còn cái viền của vành mũ trong tranh thì Harry bỗng hét lên.

“Đợi đã! Có phải thầy đã nói cho Snape biết những gì thầy nhìn thấy?”

Cụ Phineas Negillus thò cái đầu bị bịt mắt trở lại khung tranh. “Giáo sư Snape có nhiều điều quan trọng trong đầu hơn là những điều lập dị của Albus Dumbledore. Tạm biệt, Potter!”

Và cứ như thế; cụ biến hẳn khỏi khung tranh, để lại phía sau là một cái nền tranh u ám

“Harry!” Hermione la lớn.

“Tớ biết!” Harry hét. Không kiềm chế được bản thân, nó đấm vào không khí: cú đấm mạnh hơn nó tưởng. Nó bước quanh căn liều, cảm giác như có thể vừa chạy một dặm: nó cũng chẳng thấy đói nữa. Hermione đang nhét bức chân dung của cụ Phineas Nigellus vào lại trong túi, sau khi gài kỹ lại cái móc, nó quẳng cái túi qua một bên, khuôn mặt đầy phấn khích.

“Thanh kiếm có thể tiêu diệt Horcruxes! Lưỡi kiếm yêu tinh-tạo chỉ hấp thụ những thứ làm tăng quyền năng của chúng- Harry, thanh kiếm đã thấm đầy chất độc của Tử Xà!”

“Và thầy Dumbledore không đưa nó cho tớ vì thầy vẫn cần nó, thầy cần dùng nó để phá hủy cái dây chuyền-”

“…và thầy chắc chắn biết rằng họ sẽ không để cho cậu có nó nếu như thầy đưa nó vào di chúc…”

“…vì thế thầy làm ra một bản sao…”

“…và thầy đã đặt cái giả vào cái hộp kính…”

“…thầy ấy để cái thật ở…đâu vậy?”

Chúng nhìn nhau chằm chằm: Harry cảm thấy câu trả lời đang treo lủng lẳng vô hình ở phía trước mặt, trên cao như trêu ngươi chúng. Tại sao thầy Dumbledore không kể cho nó? Hay thật ra thầy ấy đã kể cho Harry, nhưng lúc đó Harry không nhận ra?

“Nghĩ đi” Hermione thì thầm. “Nghĩ nào! Thầy có thể để thanh kiếm ở đâu nhỉ?”

“Không ở Hogwarts,” Harry nói, trong khi vẫn tiếp tục bước lòng vòng.

“Nơi nào đó ở Hogsmeade?” Hermione gợi ý.

“Lều Hét?” Harry nói. “Không có ai vào trong đó bao giờ.”

“Nhưng Snape biết cách vào trong, chẳng lẽ điều đó không phải là mạo hiểm?”

“Thầy Dumbledore tin tưởng Snape,” Harry nhắc nhở Hermione.

“Không đủ để kể cho hắn nơi thầy ấy cất giấu thanh kiếm đâu.” Hermione nói.

“Cậu đúng đó!” Harry nói, và nó cảm thấy khá phấn khởi khi nghĩ rằng thầy Dumbledore đã giữ riêng một vài bí mật cho mình, nhưng nó lại đau đớn khi nghĩ về cái giá của lòng tin về Snape. “Hay vì thế thầy ấy đã giấu thanh kiếm ở một nơi nào đó thật xa Hogsmeade? Ron cậu có ý gì không? Ron?”

Harry nhìn quanh, sau một thoáng lúng túng nó nghĩ rằng Ron đã rời căn lều, và sau đó nó thấy Ron đang nằm trong bóng tối của chiếc giường tầng, nhìn vô cảm.

“Thôi nào cậu còn nhớ đến tụi này chứ?” nó nói

“Cái gì?”

Ron khụt khịt trong khi bò lên chiếc giường phía trên.

“Cả hai tiếp tục đi đi chứ, đừng để tớ làm ảnh hưởng đến sự vui vẻ của các cậu.”

Khá bối rối, Harry liếc nhìn Hermione để tìm kiếm sự giúp đỡ, nhưng cô bé cũng lắc đầu một cách bối rối giống hệt nó.

“Có vấn đề gì thế?’ Harry hỏi.

“Vấn đề? Không có vấn đề gì cả,” Ron nói, vẫn quay lưng về phía Harry. “Dù sao đi nữa cũng chẳng liên quan tới cậu.”

Có tiếng lộp độp rơi trên tấm vải bạt. Mưa bắt đầu rơi.

“Rõ ràng cậu đang gặp vấn đề,” Harry nói. “Phun ra luôn đi chứ?”

Ron đu người xuống khỏi giường và ngồi dậy. Trông nó cực kì xấu xa, khác hẳn chính nó ngày thường.

“Được thôi, mình sẽ phun ra, đừng bắt mình phải thôi nghỉ ngơi và hạ lều vì có một vài thứ chết tiệt mà chúng ta cần tìm ra. Hãy thêm nó vào danh sách những món mà cậu không biết.”

“Tôi không biết?” Harry nhắc lại. “Tôi không biết?”

Đồm độp, đồm độp, đồm độp. Cơn mưa trở nên nặng hạt; nó rơi lộp độp trên bờ sông trải đầy lá, tràn về phía dòng sông đang chảy róc rách. Nỗi nghi ngại làm tắt ngấm niềm hân hoan của Harry; Ron đang nói chính xác những gì mà nó tin, nó sợ rằng Ron đang nghĩ đến.

“Nó không giống như tôi đang sống khoảng thời gian của đời mình ở đây,” Ron nói, “cậu biết đó, với cánh tay bị hư và không gì để ăn được và cái mông đít thì ngày ngày bị đóng băng. Tôi chỉ hy vọng sau những tuần lễ chạy lòng vòng, chúng ra lẽ ra đã đạt được cái gì đó.”

“Ron,” Hermione nói, nhưng nói nhỏ tới mức Ron không thể giả vờ là mình nghe được điều gì trong tiếng mưa rơi ầm ầm như trống gõ dồn dập đánh vào căn lều.

“Mình nghĩ cậu biết cậu gia nhập nhóm để làm gì chứ,” Harry nói.

“Phải, tôi cũng tưởng là như thế.”

“Vậy phần nào của nó không sống theo lý tưởng của cậu?” Harry hỏi. Sự tức giận bắt đầu tràn vào trong lời cãi của nó. “Hay cậu tưởng chúng ta sẽ được ở trong khách sạn 5 sao? Mỗi ngày tìm ra một Horcrux? Hay cậu nghĩ chúng mình sẽ được về với mẹ vào lễ giáng sinh?

“Chúng tôi cứ tưởng cậu biết mình đang làm gì!” Ron hét lên, đứng bật dậy, và câu nói của nó đối với Harry thì như một con dao sắc lẻm. “Chúng tôi cứ nghĩ thầy Dumbledore đã nói cho cậu biết những gì cần làm, chúng tôi tưởng cậu có một kể hoạch thực sự!”

“Ron!” Hermione nói, lần này giọng cô bé nghe rõ thậm chí trong cả tiếng sấm sét nổ đì đùng, nhưng Ron vẫn lờ cô bé đi.

“À, xin lỗi đã khiến cậu thất vọng,” Harry nói, cố dùng giọng bình tĩnh hơn dù thực tình nó cảm thấy thật giả dối và không đáng. Mình đã thẳng thắn với cậu ngay từ đầu. Mình nói cho cậu tất cả những gì cụ Dumbledore nói cho mình biết. Và trong trường hợp cậu quên mất, nhắc lại là chúng ta đã tìm ra một Horcrux…”

“Ờ, và chúng ta đã gần như bỏ nó đi khi mải mê đi kiếm những cái còn lại, thực tế là không lần ra tí nào thì có!”

“Cởi cái Horcrux ra đi Ron,” Hermine nói, giọng cô bé nghe cao hơn thường lệ. “Làm ơn cởi nó ra đi. Cậu sẽ không bao giờ nói chuyện như vậy nếu không phải đeo nó suốt cả ngày.”

“Ờ, cậu ta sẽ không như vậy,” Harry nói, nhưng nó không muốn biện hộ cho hành động của Ron. “Không lẽ cậu không nghĩ rằng tôi cũng phải chú ý tới những lời thì thầm của các cậu đằng sau lưng mình? Không nghĩ rằng tôi cũng phải đoán ra là các cậu đang nghĩ những thứ vớ vẩn này sao?”

“Harry, tụi mình không…”

“Đừng nói dối!” Ron phóng qua nhìn Hermione. “Cậu cũng nói, cậu cũng nói rằng cậu thấy thất vọng, rằng cậu không chắc hắn có biết mình tiếp tục phải làm gì hơn là…”

“Mình không nói như thế…Harry, mình không hề!” cô bé hét lên.

Mưa vẫn xối xả đổ trên mái lều, nước mắt đổ xuống khuôn mặt của Hermione và sự kích động của mấy phút trước giờ đã biến mất như thể nó chưa từng xảy ra, con nổi nóng ngắn ngủi bùng lên và bị dập tắt, bỏ lại tất cả bóng tối, lãnh lẽo, ướt giá. Thanh kiếm của nhà Gryffindor đã được giấu đi và chúng không biết ở đâu cả. Chúng là ba đứa thiếu niên lang thang và ở trong một túp lều mà thành công duy nhất là vẫn chưa chết.

“Vậy cậu vẫn ở đây làm gì thế?” Harry hỏi Ron.

“Tôi còn không biết nữa là”-Ron nói.

“Vậy cậu về nhà đi”, Harry nói.

“Phải, có khi” Ron hét lên, và tiến tới gần Harry thêm một vài bước. Harry không hề lùi lại, “Cậu không nghe họ nói gì về em gái tôi sao? và cậu không thèm để ý một cục phân nào về nó, phải không? Chỉ mới đây tại cánh rừng cấm đó thôi, Harry, giờ đây mình đã đối mặt với một Potter hạ cấp hơn trước, người đã không quan tâm điều gì xảy ra với con bé ở đó, phải, tôi ngán, những con nhện khổng lồ và những thứ não trôi lềnh phềnh” (trong tập 5 – Johnny)

“Tôi chỉ nói rằng-con bé đã ở với những người khác, và họ đã ở cùng với Hagrid”

“Uh, tôi hiểu rồi, cậu không quan tâm. Còn về những thành viên trong gia đình của tôi, nhà Weasleys không cần phải thêm một đứa trẻ nữa bị thương. Cậu nghe gì không thế”

“Uhm, mình…”

“Dù thế, nó nghĩa là gì cũng chẳng phiền tới cậu, phải không?”

“Ron!”, Hermione lên tiếng, chen mình vào giữa 2 người.”Mình không nghĩ điều đó có nghĩa cái gì đó mới xảy ra, bất kể điều gì mà chúng ta không biết, nghĩ đi Ron, Bill đã bị cào tả tơi, rất nhiều người đã nhận thấy George giờ đã mất một tai, và cậu thì có thể chết vì bệnh spattergroit, tớ chắc đấy là điều mà ông ta muốn nói…”

“Ồ, cậu chắc chứ hả? Phải, tớ sẽ không làm phiền bản thân tớ về họ đâu. Tất cả quá ổn với cậu rồi phải không, với ba mẹ cậu đang ở một nơi thật an toàn ngoài cuộc”

“Bố mẹ tớ đã chết rồi” Harry kêu lên.

“Và bố mẹ tớ cũng chuẩn bị giống vậy đấy” Ron cũng hét lên

“Vậy đi đi” Harry gào lên. “Vậy quay lại với họ đi, giả vờ như là cậu đã khỏi cái bệnh spattergroit ấy, và mẹ cậu sẽ có thể nuôi cậu và…”

Ron bất ngờ di chuyển. Harry phản ứng lại, nhưng trước khi cây đũa thần được rút ra khỏi túi của hai người, Hermione đã hành động trước.

“Protego!” (Che chắn – ND), cô hét lên và một bức tường vô hình như mở rộng ra ở giữa, một bên là Hermione và Harry, một bên là Ron. Tất cả họ đã bị đẩy lùi lại vài bước bởi sức mạnh của câu thần chú, Ron và Harry nhìn nhau giận dữ từ 2 bên của cái barrier trong suốt. Harry cảm thấy ghét Ron. Có gì đó đã đổ vỡ giữa bọn chúng.

“Bỏ lại cái Horcrux đi” Harry nói.

Ron vặn mạnh cái dây đeo cổ khỏi đầu, và quăng cái mặt trái tim lên cái ghế gần đó, quay lại nhìn Hermione.

“Cậu làm cái gì thế?”

“Cậu nói thế ý là gì?”

“Cậu ở lại hay thế nào đây”

“Mình…” Her trông thật buồn. “Phải…phải, Mình ở lại, Ron, chúng ta đã nói là đi cùng với Harry, chúng ta nói là sẽ giúp”

“Tôi hiểu rồi. Cậu chọn cậu ta”

“Ron, không, làm ơn, quay lại đi”

Hermione bị ngăn lại bởi chính tường bảo vệ của mình; đúng lúc Hermione bỏ được nó đi cũng là lúc Ron đã biến vào trong bóng đêm. Harry đứng bất động và yên lặng, nghe Hermione thổn thức và gọi tên Ron giữa cây là cây.

Sau một vài phút, Hermione quay trở lại.

“Cậu ấy đi r..r..rồi! Độn thổ!”

Cô bé quăng mình xuống ghế, thu mình lại và bắt đầu khóc. Harry vẫn còn bàng hoàng. Nó dừng lại, nhặt cái Horcrux lên và vòng qua cổ, lôi cái chăn ra khỏi giường của Ron và ném sang chỗ Hermione rồi lồm cồm trèo về giường mình, dán mắt lên mái bạt của căn lều, lắng nghe tiếng mưa đổ rào rào xuống mái.

Chương 16: Thung Lũng Godric.

Khi Harry thức dậy vào ngày hôm sau, phải mất vài giây sau nó mới nhớ là đã xảy ra chuyện gì. Khi đó nó chỉ hy vọng ngây ngô rằng, đó chỉ là một giấc mơ, và Ron vẫn còn ở đó như chưa bao giờ bỏ đi. Nhưng lúc nó trở đầu mình trên gối, nó có thể nhìn thấy cái giường cũ kĩ của Ron giờ đã trống rỗng. Cái sự thật ấy như một cái thây ma đập thẳng vào mắt nó. Harry nhảy xuống giường, cố tránh không nhìn vào chỗ của Ron. Hermione, đang bận rộn trong bếp, không nói với Harry một lời chào buổi sáng, mà vội quay đi khi nó đi ngang qua. Ron đi rồi, Harry nói với chính mình. Đi thật rồi. Nó nghĩ hoài về điều đó trong khi rửa mặt và thay đồ như thể nếu lặp lại có thể làm bớt đi cú sốc này. Ron đã đi và sẽ không quay trở lại. Harry biết, sự thật đơn giản là, bùa chú bảo vệ của tụi nó có ý nghĩa là một khi tụi nó bỏ nơi này, thì Ron sẽ không thể nào tìm được tụi nó nữa. Nó và Hermione ăn sáng trong im lặng. Đôi mắt cô bé mọng lên và đỏ tấy; trông như thể cô bé không ngủ suốt đêm. Tụi nó gói ghém đồ đạc của mình lại, nhưng Hermione làm rất rề rà. Harry biết vì sao cô nàng muốn trì hoãn thời gian tại khu bờ sông; vài lần nó thấy cô nàng hăm hở nhìn dáo dác, và nó chắc là cô nàng đang tự đánh lừa mình khi nghĩ rằng có tiếng chân bước trong cơn mưa, nhưng rồi không có hình bóng của một cái đầu đỏ hoe nào xuất hiện. Mỗi lần Harry bắt chước Hermione, nhìn quanh quất (bởi vì chính nó cũng hy vọng không ít) và không thấy gì cả ngoài khu rừng sũng nước mưa, một niềm hân hoan mỏng manh vừa loé lên trong nó chợt tan biến. Nó như nghe Ron nói, “Chúng tôi tưởng rằng cậu biết mình đang làm gì!”, và nó tiếp tục đóng gói đồ đạc với một cái nhói đau trong bụng.

Dòng sông lầy lội cạnh bên đang dâng lên nhanh chóng và sẽ sớm tràn tới bờ sông nơi bọn nó đang ở. Bọn nó đã chần chừ mất một tiếng đồng hồ kể từ khi chúng quyết định đi khỏi nơi này. Cuối cùng, sau khi đã đóng


gói cái túi vải rút đến ba lần, Hermione dường như không còn lý do nào để trì hoãn nữa: hai đứa nắm tay nhau và độn thổ. Cả hai hiện ra ở một bên đồi phủ đầy cây thạch nam bị gió thổi dạt hẳn sang một phía. Ngay khi tụi nó đến nơi, Hermione liền bỏ tay Harry xuống và bước ra xa khỏi nó, và rồi ngồi xuống trên một tảng đá lớn, mặt khép vào đầu gối của mình, người rung rung và nó biết cô nàng đang sụt sùi khóc. Nó nhìn Hermione, nghĩ rằng nó phải đến bên cô nàng và dỗ dành, nhưng một cái gì đó giữ nó đứng yên một chỗ. Mọi thứ bên trong nó như lạnh lẽo và bị bóp nghẹt: Nó lại nhìn thấy cái vẻ khinh khỉnh trên mặt Ron. Harry bước băng qua đám cây thạch nam, bước thành một vòng lớn quanh Hermione, miệng đọc thần chú theo kiểu mà Hermione thường làm để đảm bảo chúng được an toàn.

Bọn nó không nói gì về Ron trong vài ngày tiếp theo sau đó. Harry quyết định không bao giờ nhắc đến tên của Ron nữa và Hermione dường như cũng biết là chẳng ích gì khi cứ nghĩ về vấn đề đó, mặc dù thỉnh thoảng vào ban đêm khi mà cô nàng nghĩ rằng nó đã ngủ, nó vẫn nghe tiếng cô nàng khóc. Trong lúc đó, Harry bắt đầu lấy tấm bản đồ đạo tặc ra và xem xét nó với ánh sáng của đũa phép. Nó mong đợi, trong một khoảnh khắc nào đó, tên của Ron hiện ra trên dãy hành lang của trường Hogwarts, để chứng minh rằng Ron đã trở về lâu đài ấm cúng, được bảo vệ vì mang dòng máu thuần chủng. Tuy nhiên, tên của Ron đã không xuất hiện và một lúc sau Harry lại thấy mình chăm chú nhìn vào tên của Ginny ở khu vực ký túc xá nữ, tự hỏi cảm xúc mãnh liệt khi nó nhìn chăm chăm vào đó có thể xâm nhập vào giấc ngủ của cô bé hay không, để cô có một chút gì đó biết rằng nó đang nghĩ đến cô, hy vọng cô vẫn bình an.

Ban ngày, chúng dành hết thời gian để cố gắng xác định xem những nơi nào có thể có thanh gươm của Gryffindor, nhưng tụi nó càng nói về nơi mà cụ Dumbledore có thể cất giữ thanh gươm, càng lúc tụi nó càng thấy thất vọng và mơ hồ. Cố vắt óc, Harry cũng không thể nhớ rằng cụ Dumbledore đã từng nhắc đến một nơi mà cụ có thể cất giấu một thứ gì đó. Có những lúc nó không biết là nó đã bực mình vì chuyện của Ron hay chuyện của cụ Dumbledore hơn. “Chúng tôi nghĩ rằng cậu biết cậu đang làm gì…Chúng tôi nghĩ rằng cụ Dumbledore đã nói cậu phải làm gì…Chúng tôi nghĩ là cậu đã có một kế hoạch thực sự!

Nó không thể che dấu với chính bản thân mình rằng: Ron đã đúng. Cụ Dumbledore hầu như chẳng để lại gì cho nó. Bọn nó đã phát hiện ra một Trường Sinh Linh Giá, nhưng lại không có cách nào để phá huỷ nó: còn những cái khác thì không thể có được như thể chúng đã từng tồn tại. Sự tuyệt vọng đe doạ nhấn chìm nó. Bây giờ nó đang phân vân nghĩ đến sự kiêu hãnh của mình khi chấp thuận đề nghị của tụi bạn đi lang thang cùng nó, trong cuộc hành trình vô định này. Nó không biết gì cả, nó không có một ý tưởng nào, và nó không ngừng, một cách cay đắng khi nhận ra rằng, Hermione cũng sẽ sắp nói với nó rằng đã quá đủ rồi. Và rằng cô nàng sẽ bỏ đi.

Bọn chúng trải qua nhiều buổi tối hầu như yên lặng và Hermione lấy ra bức tranh của cụ Phineas Nigellus và trải nó ra trên một cái ghế, như thể cụ có thể lấp được phần nào khoảng trống mà Ron đã để lại vì sự ra đi của mình. Mặc dù đã quả quyết trước đó rằng cụ sẽ không bao giờ đến thăm chúng nữa, cụ Phineas Nigellus có vẻ như là khó có thể bỏ qua cơ hội để tìm hiểu thêm về tình trạng của Harry và thỉnh thoảng vẫn xuất hiện, với cái băng che kín mắt, vài ngày một lần. Harry mừng vì gặp được cụ, bởi vì cụ là người bầu bạn, dù cụ hơi giả tạo và tử tế một cách chua chát. Bọn nó hỏi cụ về bất cứ thông tin nào đang xảy ra ở Hogwarts, mặc dù cụ Phineas Nigellus không phải là một người đưa tin lý tưởng. Cụ tôn sùng Snape, hiệu trưởng đầu tiên thuộc nhà Slytherin kể từ khi cụ cai quản trường, và bọn nó phải cẩn trọng mới không phê phán hay hỏi những câu hỏi xấc láo về Snape, nếu không cụ Phineas Nigellus sẽ rời khỏi bức chân dung của mình ngay lập tức.

Tuy nhiên, cụ cũng đã để lộ một vài thông tin. Snape dường như đang phải đối mặt với một làn sóng nổi dậy âm thầm, dai dẳng từ một bộ phận học sinh cứng đầu. Ginny đã bị cấm đi thăm làng Hogsmeade. Snape đã khôi phục lại một quy định cũ của mụ Umbridge cấm tụ tập theo nhóm từ ba học sinh trở lên hoặc bất kỳ một tổ chức học sinh không chính thức nào. Từ những điều này, Harry suy đoán rằng Ginny, và có thể là cùng với Neville và Luna, đang nỗ lực hết sức để tiếp tục hoạt động của Đoàn Quân Dumbledore. Thông tin hiếm hoi này làm Harry lại càng nung nấu muốn gặp lại Ginny, nhớ cô bé đến tệ hại như một cơn đau ở dạ dày; nhưng nó cũng gợi cho nó nghĩ về Ron, và về cụ Dumbledore, và kể cả Hogwarts, nó nhớ họ như nhớ người bạn gái cũ của mình. Quả thật, cụ Phineas Niggellus đã kể về sự thẳng tay của Snape, trong một vài giây, Harry có một suy nghĩ điên rồ khi tưởng tượng rằng nó sẽ trở về trường để tham gia cùng với nhóm gây rối chống lại chế độ của Snape tại trường: được ăn uống và có một cái giường êm ái, và chăm lo cho bạn bè, có vẻ như đó là viễn cảnh tuyệt vời nhất trên thế giới lúc này. Nhưng khi đó nó chợt nhớ ra rằng nó là Kẻ Bị Truy Nã Số Một, mười ngàn Galleon cho cái đầu của nó, và một khi bước chân vào Hogwarts những ngày này cũng nguy hiểm như bước chân vào Bộ Pháp Thuật. Đôi lúc, cụ Phineas Nigellus có những câu hỏi dò có vẻ như vô tình về nơi ở hiện giờ của Harry và Hermione. Hermione liền nhét cụ vào lại trong cái túi mỗi khi cụ hỏi như thế, và lúc nào cũng vậy, cụ Phineas Nigellus không thèm xuất hiện trở lại trong vài ngày sau đó mỗi khi xảy ra cuộc chia tay thô lỗ như vậy.

Thời tiết càng lúc càng trở lạnh. Bọn nó không dám ở lại bất cứ nơi nào quá lâu, do đó thay vì ở lại miền nam nước Anh, nơi mặt đất cứng băng giá là nỗi lo cùng cực của chúng, bọn chúng tiếp tục đi lang thang lên xuống dọc miền đất nước, băng qua những bờ đá núi, nơi những cơn mưa đá tuôn trên mái lều, qua vùng đầm lầy trơn rộng, nơi căn lều bị ngập trong những cơn trút nước lạnh cóng; và một hòn đảo nhỏ ở giữa hồ Scottish, nơi tuyết suýt chút nữa là chôn vùi cái lều trong đêm. Bọn nó đã nhận ra những Cây Giáng Sinh lấp lánh qua cửa sổ một vài căn phòng khách trước một buổi tối Harry lại có một đề nghị, dường như theo nó là về một nơi mà bọn nó chưa đi qua. Bọn nó vừa có một buổi ăn tối ngon hơn mọi bữa: Hermione đã đi siêu thị dưới cái áo khoác tàng hình (cẩn thận để tiền vào một ngăn để tiền trước khi đi ra), và Harry nghĩ rằng cô nàng có thể dễ bị thuyết phục hơn mọi bữa với một cái bụng đầy món spaghetti Bolognese và lê đóng hộp.

Nó đã tính toán khi đề nghị bọn nó nên ngừng lại vài tiếng tìm hiểu về cái Trường Sinh Linh Giá, hiện đang treo thòng lòng ở cuối cái giường bên cạnh nó.

“Hermione?”

“Hmm?” Cô nàng đang cuộn người lại trên một trong số những cái ghế bành bị lún cùng với quyển sách Chuyện kể về thi sĩ xứ Beedle. Nó không thể tưởng tượng phải mất bao lâu để cô nàng rời mất khỏi quyển sách, cuối cùng, cũng không quá lâu, nhưng rõ ràng là cô vẫn đang còn phải giải mã vài thứ có trong đó, bởi vì quyển Sách Học Vần dành cho Kẻ Ếm Bùa đang để mở đặt trên thành ghế.

Harry đằng hắng. Nó cảm giác giống như nó đã từng làm vào một dịp, cách đây vài năm, khi Harry hỏi Giáo Sư McGonagall liệu nó có thể đi thăm làng Hogsmeade hay không, mặc dù nó không thể thuyết phục nhà Dursleys ký vào thư cho phép.

“Hermione, mình đã suy nghĩ kỹ, và…”

“Harry, cậu có thể giúp mình một chút được không?” Rõ ràng là cô nàng đã không nghe nó nói. Cô chồm người ra phía trước và cầm cuốn thi sĩ xứ Beedle thẳng lên.

“Hãy nhìn vào dấu hiệu này” cô nói, tay chỉ vào đầu trang sách. Ở đó Harry cho rằng là tiêu đề của câu chuyện (do không thể đọc chữ runes, nên nó không biết chắc được), có một cái hình trông giống như một con mắt hình tam giác, con ngươi cắt thành một đường thẳng đứng.

“Mình chưa bao giờ theo học lớp Cổ Ngữ Runes, Hermione à”

“Mình biết chứ; nhưng nó không phải là chữ Runes và nó cũng không có trong quyển sách đánh vần. Mình nghĩ rằng nó là hình một con mắt, nhưng lại không cho rằng đó chỉ là một con mắt. Có vết mực hằn lên ở bên trong, xem nè, ai đó đã vẽ nó ở đây, nó không phải là một phần của quyển sách. Hãy nghĩ thử xem, cậu đã từng trông thấy nó trước đây chưa?”

“Chưa… À không, đợi một chút” Harry nhìn sát hơn. “Nó trông tựa như biểu tượng mà cha của Luna đeo quanh cổ ông ấy đúng không?”

“Ừ, tớ cũng nghĩ thế!”

“Như vậy nó là dấu hiệu của Grindelwald.”

Cô nàng nhìn chằm chằm vào nó, há hốc miệng.

“Cái gì?”

“Krum đã nói với mình…” Nó kể lại câu chuyện mà Viktor Krum đã nói trong tiệc cưới. Hermione trông có vẻ kinh ngạc.

“Dấu hiệu của Grindelwald?”

Cô nàng nhìn từ Harry sang cái dấu hiệu kỳ lạ đó rồi nhìn ngược lại lần nữa. “Mình chưa từng nghe nói là Grindelwald có một dấu hiệu. Những thứ mình từng đọc về ông ấy không có nói về điều này”

“À, như mình nói, Krum nghĩ rằng biểu tượng đó được khắc trên một bức tường ở Durmstrang, và Grindelwald đã để nó ở nó.” Cô nàng rơi trở lại chiếc ghế bành cũ, mày nhíu lại.

“Thật là kỳ lạ. Nếu nó là một biểu tượng của Pháp Thuật Hắc Ám, vậy thì nó có trong quyển sách truyện thiếu nhi để làm gì?”

“Phải, đúng là kỳ lạ thật,” Harry nói. “Và cậu có nghĩ rằng ông Scrimgeour cũng đã có thể nhận ra nó. Ông ta là bộ trưởng, ắt hẳn ông cũng phải là một chuyên gia về những đồ vật Hắc Ám.” “Mình biết… Có lẽ ông ấy nghĩ rằng nó là một con mắt, giống như tớ đã nghĩ. Tất cả các câu chuyện khác đều có một hình nhỏ phía trên tựa đề” Cô nàng ngừng nói, tiếp tục nhìn đăm đăm vào dấu hiệu lạ lùng đó. Harry cố gắng thêm lần nữa.

“Hermione?”

“Hmm?”

“Mình đã suy nghĩ kỹ. Mình…mình muốn đến Thung Lũng Godric”

Cô nàng ngước nhìn nó, nhưng mắt thì không tập trung, và nó chắc là cô vẫn còn đang nghĩ về dấu hiệu bí ẩn trên quyển sách.

“Ừ” cô nàng nói. “Phải, mình cũng tự hỏi về điều này. Và mình nghĩ là chúng ta phải đến đó”

“Cậu nghe mình nói rõ không đó?” nó hỏi.

“Dĩ nhiên là mình nghe rõ. Cậu muốn đến Thung Lũng Godric. Mình đồng ý. Mình nghĩ là chúng ta nên đến đó. Ý mình là, mình không tìm được nơi nào khác. Có thể sẽ nguy hiểm đấy, nhưng càng nghĩ về điều đó, càng thấy là chỉ có nơi đó là có thể có” “Err – có cái gì?” Harry hỏi.

Lúc đó, cô nàng trông ngơ ngác như chính nó vậy.

“À, thanh gươm, Harry à! Dumbledore ắt phải biết là cậu muốn quay về nơi đó, và ý mình là, Thung lũng Godric chính là nơi sinh thành của Godric Gryffindor”

“Thật ư? Gryffindor xuất thân từ Thung Lũng Godric à?”

“Harry, cậu chưa bao giờ mở quyển Một Trang Sử Pháp Thuật ra sao?”

“Ehh,” nó nói, mỉm cười lần đầu tiên trong vòng hàng tháng nay: các cơ trên mặt cảm giác như bị cứng lại một cách kỳ lạ “Có lẽ mình đã mở nó ra, cậu biết đấy, khi mình mua nó…chỉ có lần đó…”

“Này nhé, bởi vì ngôi làng được đặt theo tên ông ta, nên mình nghĩ là cậu phải liên tưởng đến điều đó chứ.” Hermione nói. Cô nàng nói nghe có vẻ giống với bản thân mình trước đây hơn là thời gian gần đây; Harry chợt muốn nghe cô nàng tuyên bố là sẽ đến thư viện. “Có một ít thông tin về ngôi làng trong quyển Lịch Sử Pháp Thuật, chờ chút…”

Cô nàng mở cái túi rút ra và lục lọi một hồi, cuối cùng lôi ra một quyển sách sao lại từ quyển giáo khoa ở trường, cuốn Lịch Sử Pháp Thuật của Bathilda Bagshot, lật qua lật lại cho đến khi tìm được cái trang mà mình muốn tìm.

“Sau khi ký tên vào Đạo Luật Quốc Tế về Bảo Mật năm 1689, các phủ thuỷ đổ xô đi tìm nơi ẩn dấu an toàn. Có lẽ, cũng tự nhiên thôi, họ thiết lập những cộng đồng nhỏ trong một khu vực. Nhiều ngôi làng nhỏ và thôn xóm đã thu hút nhiều gia đình phủ thuỷ, những người tụ họp lại để hỗ trợ và bảo vệ lẫn nhau. Làng Tinworsh ở Cornwall, làng Upper Flagley ở Yorkshire, và làng Ottery St. Catchpole ở bờ biển phía nam nước Anh là những khu vực đáng chú ý với các nhóm gia đình phù thuỷ sống dọc theo và đôi lúc sống cùng với dân Muggles. Nổi tiếng nhất trong những nơi nửa phủ thuỷ như thế này có lẽ là thung lũng Godric, ngôi làng ở miền Tây đất nước nơi vị phù thuỷ trứ danh Godric Gryffindor được sinh ra, và nơi Bowman Wright – thợ thủ công phù thuỷ – làm được trái banh snitch đầu tiên. Nghĩa địa ở đó có đầy tên của những gia đình phù thuỷ xa xưa, và điều này, không còn nghi ngờ gì nữa, là khởi nguồn của những chuyến thăm đến ngôi nhà thờ nhỏ bé bên cạnh nghĩa địa hàng bao thế kỷ”

“Cậu và cha mẹ của cậu không được đề cập đến” Hermione nói, đóng quyển sách lại, “bởi vì Giáo Sư Bagshot không nói đến những sự kiện xảy ra sau khi kết thúc thế kỷ mười chín. Nhưng cậu thấy đó, thung lũng Godric, Godric Gryffindor, thanh gươm Gryffindor; cậu không nghĩ rằng cụ Dumbledore hy vọng cậu có sự liên tưởng đến những điều đó sao?”

“Ồ phải rồi…”

Harry không muốn thừa nhận rằng nó đã không hề suy nghĩ về thanh gươm khi nó đề nghị đi đến Thung Lũng Godric. Với nó, sự hiểu biết về ngôi làng nằm bên dưới mộ của cha mẹ nó, ở căn nhà nơi nó đã thoát chết trong gang tấc, và ở người có tên là Bathilda Bagshot.

“Cậu nhớ dì Muriel đã nói gì không?” rốt cuộc thì nó cũng hỏi.

“Ai cơ?”

“Cậu biết mà” nó ngập ngừng. Nó không muốn nói ra tên của Ron. “bà dì của Ginny ấy. Tại tiệc cưới. Người đã nói là cậu có cái chân gầy nhom đó.”

“Ồ,” Hermione nói. Đó là một khoảnh khắc khó khăn: Harry biết cô nàng sắp buộc phải nói ra tên của Ron. Nó vội nói tiếp:

“Bả nói bà Bathilda Bagshot vẫn còn sống ở Thung Lũng Godric”

“Bathilda Bagshot,” Hermione lẩm bẩm, đưa ngón tay dò theo tên của Bathilda được chạm nổi ở trang bìa quyển Lịch Sử Pháp Thuật. “À, mình cho rằng…”

Cô nàng đột nhiên há hốc miệng làm cho ruột gan Harry muốn lộn tùng phèo; nó rút đũa phép ra, nhìn quanh lối ra vào, tưởng rằng sẽ thấy một cánh tay đang kéo giựt tấm vải bạt làm lối vào trong lều, nhưng không có gì cả.

“Gì vậy?” nó hỏi, nửa bực mình, nửa nhẹ nhõm. “Cậu làm thế là ý gì thế? Tớ tưởng cậu thấy một tên Tử Thần Thực Tử đang phá tung cái lều chứ, ít ra thì…”

“Harry, chuyện gì xảy ra nếu Bathilda giữ thanh gươm? chuyện gì xảy ra nếu cụ Dumbledore giao nó cho bà ta?”

Harry suy nghĩ về khả năng này. Bathilda có thể là phụ nữ lớn tuổi nhất hiện nay, và theo lời bà dì Muriel, bà ta khá là “lẫn cẫn”. Có lẽ nào cụ Dumbledore đã cất giấu thanh gươm ở chỗ bà ấy? Nếu vậy thì, Harry cảm thấy cụ Dumbledore đã đánh liều một cú lớn: cụ Dumbledore chưa bao giờ tiết lộ rằng cụ đã thay thanh gươm bằng một cái giả, cũng như đề cập nhiều về tình bạn giữa cụ và Bathilda. Bây giờ, dù sao đi nữa, cũng không phải là lúc bác bỏ nghi ngờ về lý thuyết mà Hermione đưa ra, không phải lúc cô nàng sẳn sàng một cách đáng ngạc nhiên là tán đồng với mong ước khát khao của Harry.

“Đúng, có thể cụ đã làm như thế! Vậy thì, bọn mình sẽ đi đến Thung Lũng Godric chứ?”

“Ừ, nhưng bọn mình sẽ phải tính toán kỹ Harry à”. Cô nàng ngồi thẳng lại, và Harry có thể nói rằng biểu hiện cho thấy sẽ có một kế hoạch làm nhẹ đi tâm trạng của cô nàng và cả của nó. “Chúng ta cần phải thực tập phép độn thổ cùng với nhau bên dưới tấm Áo Khoát Tàng Hình trước tiên, và có lẽ cả Bùa Lú nữa, trừ phi cậu nghĩ rằng bọn mình sẽ đi suốt quãng đường và dùng Thuốc Đa Dịch chứ? Trong trường hợp đó, tụi mình cần phải kiếm được tóc của ai đó. Thật sự tớ nghĩ tụi mình nên làm thế thì hơn, Harry ạ, chúng ta giả trang càng kỹ lưỡng càng tốt…”

Harry để cho cô nàng nói, gật đầu và tán đồng mỗi lúc ngắt quãng, nhưng đầu óc của nó lại để bên ngoài cuộc nói chuyện. Lần đầu tiên kể từ khi phát hiện ra thanh gươm tìm thấy ở Gringotts là giả, nó cảm thấy phấn khởi như vậy.

Nó sắp được trở về nhà, trở về nơi mà nó từng có một gia đình. Tại vì Voldermort, nếu không thì nó đã lớn lên và nghỉ hè tại Thung Lũng Godric vào mỗi năm. Nó có thể mời bạn bè đến nhà của nó…Và thậm chí nó còn có thể có mấy đứa em trai và em gái…Lẽ ra người làm bánh sinh nhật cho nó năm mười bảy tuổi là mẹ của nó. Cuộc sống mà nó đã mất dường như khó có thể trở thành sự thật được vào lúc này, khi mà nó biết nó sắp nhìn thấy nơi mà nó đã bị mang đi. Tối đó, sau khi Hermione đã đi ngủ, Harry lặng lẽ lấy cái balô của nó từ trong cái ví ma thuật của Hermione ra, và trong đó, có cuốn album lão Hagrid tặng nó trước đây. Lần đầu tiên trong nhiều tháng liền, nó nhìn kỹ những tấm hình cũ của ba mẹ nó, đang mỉm cười và vẫy tay với nó, đó là tất cả những gì nó có được về họ.

Harry vui vẻ nghĩ tới chuyến khởi hành đi đến Thung Lũng Godric vào hôm sau, nhưng Hermione thì có ý kiến khác. Cô nàng tin chắc là Voldermort có thể đoán được là Harry sẽ trở về nơi mà ba mẹ nó đã chết, vì thế cô nàng quyết định là bọn nó chỉ lên đường sau khi chúng tin chắc rằng chúng đã giả trang kỹ càng nhất. Do đó phải đúng một tuần sau – khi mà chúng lén lấy được vài mớ tóc của những người Muggle vô tội đi mua sắm cho lê Giáng Sinh, và đã thực tập phép Hiện Hình và Độn Thổ bên dưới tấm Áo Khoác Tàng Hình cùng với nhau – thì Hermione mới đồng ý thực hiện chuyến đi.

Bọn nó phải xuất hiện ở ngôi làng trong sự bao phủ của màn đêm, do đó vào cuối buổi chiều, bọn nó phải uống thuốc Đa Dịch. Harry biến thành một ông Muggle trung niên đầu hói, Hermione biến thành mụ vợ nhỏ bé và có phần rụt rè. Cái túi vải rút chứa tất cả những gì bọn nó có (ngoại trừ cây Trường Sinh Linh Giá, Harry đang đeo vòng quanh cổ) được gấp bỏ vào cái giỏ đeo bên cạnh áo khoác của Hermione. Harry kéo cái áo khoác Tàng Hình trùm lên hai đứa, sau đó hai đứa nó biến vào một khoảng tối nghẹt thở một lần nữa.

Tim đập mạnh dưới lồng ngực của mình, Harry mở mắt ra. Bọn nó đang đứng nắm tay nhau ở một con hẻm đầy tuyết ngay bên dưới bầu trời đen xanh thẫm, ở đó những ngôi sao đầu tiên trên trời chỉ còn loe lói thứ ánh sáng yếu ớt. Những căn nhà tranh nằm hai bên một con đường hẹp, đèn giáng sinh lấp lánh bên cửa sổ. Một lối đi ngắn ở trước mặt tụi nó, ánh sáng đèn đường chỉ cho thấy rằng nó dẫn vào trung tâm của ngôi làng.

“Toàn là tuyết!” Hermione thì thầm bên dưới cái áo khoát tàng hình. “Tại sao tụi mình không nghĩ đến tuyết nhỉ? Sau tất cả những đề phòng từ trước, tụi mình lại để lại dấu chân! Chúng ta phải xoá ngay – cậu đi trước đi, tớ sẽ làm việc này”

Harry không muốn vào làng giống như một con ngựa câm, cố gắng che dấu chính mình trong khi lại để lại dấu vết.

“Hãy cởi áo khoác ra đi” Harry nói, và cô nàng trông có vẻ sợ hãi, “Ồ, thôi mà, tụi mình nhìn không giống chính mình đâu, mà cũng chẳng có ai ở quanh đây đâu”

Nó cuộn cái áo khoác lại cất vào áo gió của mình và hai đứa tiến về phía trước mà không gặp trở ngại nào, sau khi đã đi qua nhiều ngôi nhà, hơi lạnh làm mặt chúng bị nhức buốt. Chẳng ngôi nhà nào có vẻ là nơi mà James và Lily từng ở hoặc là nơi mà Bathilda hiện đang ở. Harry chăm chú nhìn vào những cái cửa trước, những mái nhà phủ đầy tuyết, và cổng vòm trước nhà, tự hỏi nó có nhớ ra cái nào trong số đó không, mặc dù tận sâu bên trong nó biết là không thể, vì nó quá nhỏ, chỉ hơn 1 tuổi vào cái lúc mà nó rời khỏi nơi này mãi mãi. Nó thậm chí không chắc chắn được là nó có thể thấy căn nhà; nó không biết chuyện gì xảy ra nếu đối tượng của Bùa Trung Tín chết. Khi đó một lối nhỏ dọc theo con đường mà bọn nó đang đi uốn cong về phía bên trái, và trung tâm của ngôi làng, một khoảng đất nhỏ, hiện ra trước mặt bọn nó.

Được treo vòng quanh bởi những ngọn đèn màu, ở giữa có một cái gì đó trông như là đài tưởng niệm chiến tranh, phần nào bị che đi bởi một cây Giáng Sinh bị gió quật te tua. Có một vài cửa hàng, một bưu điện, một quán rượu, và một nhà thờ nhỏ với cửa sổ lắp kính màu rực rỡ, ánh sáng đủ màu hắt ra khu đất.

Tuyết ở đây bị giày nát: cứng và trơn vì cả ngày nhiều người đã đạp lên. Dân làng đi qua đi lại phía trước mặt tụi nó, dáng của họ như được chiếu sáng bởi những ngọn đèn đường. Bọn nó nghe tiếng cười và tiếng nhạc pop mỗi khi cửa cái quán rượu mở ra đóng vào; lúc đó bọn nó nghe tiếng hát bắt đầu vang lên từ bên trong nhà thờ nhỏ.

“Harry à, tớ nghĩ bây giờ là Đêm Trước Giáng Sinh”, Hermione nói.

“Vậy à?”

Nó hầu như không còn khái niệm về ngày giờ nữa; bọn nó đã không xem báo hàng tuần nay rồi.

“Tớ chắc thế,” Hermione nói, mắt cô nàng nhìn về phía nhà thờ. “Họ…họ ở đó, đúng không?” Cha và mẹ của cậu đó? Tớ thấy một nghĩa địa phía sau nhà thờ”

Harry


cảm thấy một sự kích động hơn cả niềm hân hoan, giống như sợ hãi. Bây giờ nó đang ở rất gần, nó tự hỏi xét cho cùng nó có thực sự muốn thăm họ hay không. Hermione biết nó đang nghĩ gì, bởi vì cô nàng lần tìm tay nó và tiến lên phía trước, kéo nó đi. Tuy nhiên, băng qua được nửa chừng khu đất, cô nàng đứng khựng lại.

“Harry, nhìn kìa!”

Cô nàng chỉ đài tưởng niệm chiến tranh. Khi chúng đi ngang qua nó, nó thay đổi. Thay vì là một cái tháp có khắc tên, lại là một bức tượng ba người: một người đàn ông tóc tai rối bù đeo mắt kiếng, một người phụ nữ tóc dài nhìn và một đứa bé trai khuôn mặt xinh xắn, đáng yêu đang ngồi trong lòng mẹ nó. Tuyết phủ đầy đầu họ, trông giống nón trắng bằng lông tơ.

Harry đến gần hơn, nhìn vào mặt cha mẹ nó. Nó chưa bao giờ tưởng tượng được là có một bức tượng…Thật kỳ lạ khi thấy chính mình hiện ra trên đá, một đứa bé hạnh phúc không có vết sẹo trên trán…

“Đi thôi,” Harry nói, khi nó đã nhìn chán, và bọn nó đi thẳng tới nhà thờ. Khi chúng băng qua đường, nó liếc nhìn qua vai mình, bức tượng đã trở về hình dạng cũ là một cột tuởng niệm chiến tranh.

Tiếng hát trở nên lớn hơn khi bọn chúng tiến đến gần nhà thờ. Nó làm cổ họng Harry thắt lại, nhắc nó nhớ về Hogwarts, nhớ con yêu tinh Peeves rống một bản nhạc tự chế bên trong bộ áo giáp sắt, nhớ cái Đại Sảnh với mười hai cây thông Giáng Sinh, nhớ cụ Dumbledore đội cái mũ tròn vành mà cụ vừa có được trong gói kẹo, nhớ Ron trong cái áo len đan bằng tay…

Có một cái cổng khép lại tại lối vào nghĩa địa. Hermione đẩy cho nó mở ra một cách nhẹ nhàng có thể được rồi bọn chúng len vào trong. Ở một bên của con đường mòn trơn trượt dẫn đến cổng nhà thờ, một lớp tuyết dày và như chưa có ai chạm vào. Bọn nó di chuyển qua tuyết, để lại một cái rãnh sâu phía sau chúng khi chúng đi vòng quanh nhà thờ, giữ cho không thấy bóng mình hắt ra từ các cửa sổ sáng đèn.

Phía sau nhà thờ, từng hàng từng hàng các bia mộ phủ đầy tuyết nhô ra từ một tấm màn xanh nhạt điểm những đốm sáng đỏ, vàng, xanh ở những nơi mà các cửa kính màu bị phản chiếu trên lớp tuyết trắng. Giữ tay mình nắm chặt đũa phép bên dưới áo gió, Harry di chuyển đến ngôi mộ gần nhất.

“Nhìn nè, đây là một người nhà Abbott, có thể là có quan hệ xa với Hannah!”

“Nói nhỏ lại đi” Hermione có vẻ như nài nỉ.

Chúng tiến từ từ sâu hơn vào trong nghĩa địa, tiến vào những dãy tối hơn và xa dần đám tuyết trắng, gập người xuống để đọc những từ khắc trên bia đá, liếc mắt nhìn xuyên màn đêm bao quanh ở mọi ngóc ngách để chắc chắn tuyệt đối là chúng không bị theo dõi.

“Harry, đây nè!”

Hermione cách nó hai dãy mộ; nó phải đi lại phía cô bé, tim nó đập nhịp liên hồi trong lồng ngực.

“Ở đây hả –?”

“Không, nhưng nhìn nè!”

Cô nàng chỉ vào tảng đá tối. Harry cúi xuống và nhìn thấy, phía trên lớp đá hoa cương mọc lấm tấm địa y, là dòng chữ Kendra Dumbledore và, dưới đó là ngày sinh và ngày mất, và con gái của bà ta. Còn có một câu trích:

Where your treasure is, there will your heart be also.

(Kho báu của bạn ở đâu, trái tim của bạn cũng sẽ ở đó)

Như vậy là Rita Skeeter và dì Muriel cũng đã có một số thông tin chính xác. Gia đình Dumbledore thật sự đã sống ở đây, và một vài người trong dòng họ đã chết ở đây.

Việc trông thấy ngôi mộ tận mắt tồi tệ hơn nhiều so với việc nghe kể về nó. Harry không thể nào nghĩ rằng nó và cụ Dumbledore cùng có gốc rễ sâu sa trong khu nghĩa địa này, và cụ Dumbledore lẽ ra phải nói cho nó biết, cụ chưa bao giờ nghĩ là cụ phải chia sẻ mối quan hệ này sao. Họ có thể cùng đi thăm lại nơi này; trong một khoảnh khắc, Harry tưởng tượng nó đến đây cùng với cụ Dumbledore, về sự gắn bó có thể có, về việc đó có ý nghĩa như thế nào với nó. Nhưng dường như là cụ Dumbledore, với việc gia đình cụ và nó được nằm bên cạnh nhau trong cùng một nghĩa địa này không là một sự trùng hợp quan trọng, có lẽ, không có liên quan gì đến nhiệm vụ mà cụ muốn Harry thực hiện.

Hermione nhìn Harry, và nó mừng là khuôn mặt của nó bị che bởi bóng đêm. Nó đọc dòng chữ trên bia đá một lần nữa. Tài sản của bạn ở đâu, trái tim của bạn cũng sẽ ở đó. Nó không hiệu những từ này có nghĩa gì. Chắc chắn là cụ Dumbledore đã chọn những từ này, bởi vì cụ là người lớn tuổi nhất trong nhà sau khi người mẹ mất.

“Cậu có chắc là cụ chưa bao giờ đề cập đến –?” Hermione bắt đầu.

“Không,” Harry trả lời cộc lốc, “tiếp tục tìm kiếm đi,” rồi nó quay đi, ước gì chưa từng thấy bia đá đó: Nó không muốn sự hồi hộp phấn khích của nó bị phá hỏng bởi sự oán giận.

“Đây này!” từ trong màn đêm, Hermione kêu lên lần nữa vài phút sau đó. “Ồ không, rất tiếc, tớ tưởng đó là mộ nhà Potter.”

Cô nàng đang chùi một bia đá bị sứt mẻ, phủ đầy rêu, chằm chằm nhìn vào nó, với một vẻ chăm chú trên mặt.

“Harry, lại đây lần nữa nào.”

He không muốn bị chỉ dẫn sai nữa, và miễn cưỡng đi băng qua đám tuyết đến chỗ Hermione.

“Cái gì?”

“Xem cái này nè!” Ngôi mộ hoàn toàn xưa cũ, bào mòn bởi thời tiết do đó Harry khó có thể đọc được tên. Hermione chỉ cho nó thấy biểu tượng bên dưới nó.

“Harry, đó là dấu hiệu trên quyển sách!”

Nó quan sát nơi mà Hermione chỉ: bia đá bị bào mòn đến nỗi không thể biết cái gì được khắc ở đó, mặc dù ở đó trông như là một con mắt hình tam giác bên dưới một cái tên hầu như không thể nào đọc được.

“Phải… liệu nó có thể là….”

Hermione thắp lửa bằng đũa phép và đưa nó đến gần nơi cái tên trên bia đá.

“Nó đề là Ig – Ignotus, tớ nghĩ thế….” “Tớ sẽ tiếp tục tìm kiếm mộ của cha mẹ tớ, được không?” Harry nói, một vẻ lạnh lùng trong giọng nói, và bước đi, bỏ mặc cô nàng lúc này đang cúi xuống bên cạnh ngôi mộ cổ.

Mỗi chỗ nó đều nhận ra những cái họ quen, giống như họ Abbott, mà nó gặp ở trường Hogwarts. Thỉnh thoảng cũng có một vài thế hệ gia đình phù thủy được chôn chung trong cùng nghĩa địa: Harry có thể biết từ ngày tháng khắc trên đó là ngày mất hoặc là ngày các thành viên hiện còn sống dời khỏi Thung Lũng Godric. Trong số những ngôi mộ bên trong sâu mà nó đi qua, và mỗi khi nó tới chỗ một bia mộ mới nó cảm thấy một chút ít e dè và ngập ngừng.

Bóng tối và sự im lặng dường như trở nên, rất đột ngột, dày đặc hơn. Harry nhìn quanh, lo lắng, nghĩ về bọn giám ngục, khi đó nó mới nhận ra rằng tiếng hát trong nhà thờ đã ngừng từ lâu, tiếng trò chuyện và tiếng người qua lại đi lễ nhà thờ đã xa dần vì mọi người trên đường trở về nhà. Ai đó ở bên trong nhà thờ đã tắt đèn.

Và lần thứ ba, giọng của Hermione vang lên trong bóng đêm, lanh lảnh và vang rõ dù cách đó vài yard.

“Harry, họ ở đây nè…ngay đây”

Và qua âm điệu của cô nàng, nó biết lần này thì đúng là cha và mẹ của nó: Nó tiến đến chỗ Hermione, cảm giác như cái gì đó nặng nề đang đè lên ngực nó, giống như cảm giác mà nó thấy trong đêm cụ Dumbledore chết, một nỗi sầu thương thực sự đang ấn chặt tim và phổi của nó.

Bia mộ chỉ nằm sau mộ của Kendra và Ariana hai hàng. Nó được làm bằng đá hoa cương trắng, giống như mộ của cụ Dumbledore, và vì thế chữ dễ đọc hơn, có vẻ như sáng lên trong bóng tối. Harry không cần quỳ xuống hoặc tiến đến gần cũng có thể đọc được chữ khắc trên đó.

JAMES POTTER
SINH NGÀY 27 THÁNG 3 1960
MẤT NGÀY 31 THÁNG 10 1981

LILY POTTER
SINH NGÀY 30 THÁNG 1 1960
MẤT NGÀY 31 THÁNG 10 1981

The last enemy that shall be destroyed is death.

(Kẻ thù cuối cùng phải bị tiêu diệt chính là cái chết )

Harry đọc dòng chữ đó một cách chậm rãi, như thể nó chỉ có một cơ hội duy nhất để hiểu được ý nghĩa của nó, và nó đọc to lên câu cuối trên bia mộ.

“’Kẻ thù cuối cùng phải bị tiêu diệt là cái chết’…” Một ý nghĩ kinh khủng ập đến, kèm theo một sự hoảng loạn. “Đó không phải là ý tưởng của một Tử Thần Thực Tử chứ? Tại sao lại có câu đó?”

“Nó không có nghĩa là chống lại cái chết giống như cách hiểu về bọn Tử thần Thực Tử, Harry à” Hermione nói, giọng nhẹ nhàng. “Nó nghĩa là…cậu biết đó…cuộc sống ở cõi bên kia. Cuộc sống sau cái chết”

Họ không còn sống nữa, Harry nghĩ: Họ đã đi thật rồi. Những dòng chữ trống rỗng không thể che đậy một sự thật là phần thân thể của cha mẹ nó được đặt bên dưới lớp tuyết và đá, lãnh đạm, không nhận biết được gì cả. Và nuớc mắt nó trào ra trước khi nó kịp ngăn lại, nóng hổi nhưng ngay lập tức lạnh ngắt trên mặt nó, lau nó đi hay giả vờ cứng rắn để làm gì? Nó để mặc nước mắt rơi, môi nó mím chặt lại, nhìn xuống lớp tuyết dày nơi yên nghỉ cuối cùng của James và Lily, giờ này có lẽ chỉ còn xương, chắc thế, hay bụi, không biết được hoặc không quan tâm đến đứa con trai còn sống của họ đang ở rất gần, tim nó vẫn đang đập, nó còn sống bởi vì họ đã hy sinh cho nó và Harry gần như ước rằng, vào lúc này, nó cũng đang ngủ bên dưới tuyết cùng với họ.

Hermione nắm tay nó lần nữa và kẹp chặt. Nó không thể nhìn cô nàng, nhưng đáp lại, nó hít thở một ngụm không khí lạnh thật sâu của đêm, cố gắng kiên định, lấy lại bình tĩnh. Lẽ ra nó nên mang một cái gì đó đến cho cha mẹ nó, nhưng nó đã không nghĩ về việc này, mỗi cái cây trong nghĩa địa đều trụi lá và đông cứng. Hermione vẫy cây đũa phép, di chuyển nó thành một vòng trong không khí, và một vòng hoa hồng Giáng Sinh đang nở hiện ra trước mặt nó. Harry đón lấy và đặt nó lên mộ cha mẹ mình.

Ngay khi nó đứng lên, nó muốn rời xa nơi này: nó nghĩ nó không chịu được một phút nào ở đây nữa. Nó vòng tay mình qua vai Hermione và đặt tay cô nàng vòng qua eo của mình, bọn nó trở ra trong yên lặng và xuyên qua tuyết, bước ngang qua mẹ và em gái của cụ Dumbledore, trở về phía nhà thờ tối và xa dần cánh cổng dẫn vào nghĩa địa.

Chương 17: Bí mật của Bathilda.

“Harry, đứng lại!”

“Chuyện gì thế?”

Chúng đang đứng lại cạnh phần mộ của một người nào đó tên là Abbott.

“Có ai đó ở đây. Có người theo dõi đấy. Mình chắc chắn. Đây này, trong những bụi cây.”

Bọn nó vẫn đứng im lặng, giữ chặt lấy nhau, và nhìn chằm chằm vào cái đường ranh giới đen ngòm của nghĩa địa. Harry không thể nhìn thấy gì cả.

“Cậu chắc không?”

“Mình nhìn thấy có cái gì đó di chuyển. Mình có thể thề là mình…”

Hermione buông nó ra để giải phóng tay cầm đũa phép.

“Chúng ta trông giống như những Muggles,” Harry chỉ ra.

“Dân Muggles thường đặt hoa lên trên phần mộ của cha mẹ họ. Harry, mình chắc rằng có ai đó ở đây.”

Harry nghĩ về cuốn Lịch sử Pháp thuật, về cái nghĩa địa mà đã bị cho là ma ám. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu…

Nhưng rồi, nó nghe thấy tiếng sột soạt và phát hiện ra một cơn lốc nhỏ từ cái bụi rậm mà Hermione đã phát hiện đang thổi tung tuyết lên. Hồn ma không thể làm cho tuyết di chuyển.

“Đó là một con mèo,” Harry nói, một hoặc hai giây sau đó,”hoặc một con chim. Nếu đó là một Tử thần Thực tử, chúng ta đã chết rồi. Nhưng phải rời khỏi đây thôi, và chúng ta sẽ lại trùm chiếc Áo khoác.”

Chúng nó ngoái lại vài lần khi chúng đi ra khỏi nghĩa địa. Harry tuy cảm thấy không lạc quan như lúc nó giả vờ cam đoan với Hermione, nhưng cũng vui mừng khi đến được cánh cổng và bước đi trên vỉa hè trơn trượt.

Chúng trùm Áo Khoác Tàng Hình lên. Quán trọ đã đông khách hơn trước. Nhiều giọng nói phía bên trong giờ đây đang hát những bản thánh ca mà chúng đã nghe khi đến gần nhà thờ. Trong giây lát, Harry xem xét có nên vào trong để ẩn náu không. Nhưng trước khi nó lên tiếng, Hermione đã rì rầm, “Đi đường này”, và đẩy nó xuống con đường đen kịt dẫn tới ngôi làng ở đối diện cái hướng mà bọn chúng đã bước vào. Harry có thể chỉ ra nơi kết thúc của những căn nhà tranh và những khúc ngoặt của con hẻm lại dẫn vào vùng thôn quê. Chúng đi nhanh hết mức có thể, băng qua những cửa sổ rực rỡ đèn màu và cái bóng đen thui của cây thông Noel in lên trên những tấm rèm cửa.

“Làm thế nào chúng ta có thể đến nhà của bà Balthida?” Hermione hỏi, vẫn hơi run và liếc nhìn qua vai. “Harry? Cậu nghĩ gì vậy? Harry?”

Cô bé kéo mạnh cánh tay của nó, nhưng Harry không tỏ vẻ gì là để ý đến. Nó đang nhìn về phía cái khối đen thui đứng ở chỗ cuối dãy nhà. Ngay sau đó, nó tăng tốc và kéo Hermione đi theo làm cô bé bị trượt một chút trên băng.

“Harry…”

“Nhìn…Nhìn kìa, Hermione…”

“Mình không…ồ!”

Nó có thể nhìn thấy; bùa Trung Tín đã bị phá cùng với ba James và má Lily. Cái bờ giậu đã lớn lên một cách tự nhiên từ mười sáu năm trước, kể từ cái ngày lão Hagrid mang Harry đi từ đống gạch vụn vẫn còn nằm vương vãi giữa đám cỏ cao đến ngang hông. Phần lớn ngôi nhà vẫn còn đó, nhưng bị che phủ hoàn toàn bởi cây trường xuân đen và tuyết, nhưng phía bên phải của tầng trên cùng đã bị thổi bung ra; Harry chắc chắn, đó là nơi lời nguyền đã đánh trúng khi bị phản lại. Nó và Hermione đứng ngay tại cánh cổng, nhìn chằm chằm vào đống đổ nát đã từng là căn nhà giống như những căn nhà ở bên cạnh.

“Mình ngạc nhiên là tại sao không ai xây lại nó?” Hermione thì thấm.

“Cậu có thể xây lại nó chăng?” Harry đáp. “Có thể nó đã bị như vậy bởi phép thuật Hắc ám và cậu không thể khôi phục lại những mất mát.”

Nó đưa bàn tay từ phía dưới áo khoác và sờ nắn từ đống tuyết đến lớp rỉ sét dày của cánh cổng, không phải là muốn mở ra, nhưng nó muốn mình cảm nhận được một phần gì đó của căn nhà.

“Cậu sẽ không vào trong chứ? Trông có vẻ không an toàn, có thể…ồ, Harry, nhìn kìa!”

Việc nó chạm vào cánh cổng có vẻ như đã làm ra điều đó. Một dấu hiệu xuất hiện trên nền đất trước mặt nó, vươn qua những cây tầm ma và cỏ dại đang quấn lấy nhau, trông nó giống như những bông hoa kỳ dị lớn nhanh, và những chữ vàng xuất hiện trên nền gỗ viết:

Ở đây, vào đêm 31 tháng 10 năm 1981,

Lily và James Potter đã qua đời.

Con trai của họ, Harry, hiện là phù thuỷ

duy nhất từng sống sót dưới lời nguyền Chết Chóc.

Căn nhà này, vô hình đối với dân Muggles,

đã được giữ trong tình trạng đổ nát như là một tường đài cho gia đình Potter

và là sự gợi nhớ đến một vụ thảm sát

đã phá tan gia đình họ.

Và xung quanh những kí tự gọn gàng này là những chữ viết cẩu thả được thêm vào bởi các phù thuỷ và pháp sư đã từng đến đây để thăm nơi mà Đứa Bé Sống Sót đã chạy thoát. Một vài người chỉ để lại chữ ký của họ bằng loại Mực Vĩnh Cửu; số khác khắc lại tên viết tắt của mình vào gỗ, còn lại thì để lại thông điệp gì đó. Những thông điệp gần đây nhất, những chữ viết trên bờ tường cổ vẫn toả sáng suốt mười sáu năm qua, đều nói những điều giống nhau.

Chúc may mắn, Harry, dù bạn ở đâu.

Nếu bạn đọc được điều này, Harry, chúng tôi luôn ủng hộ bạn!

Chúc Harry Potter sống lâu trăm tuổi.

“Họ không cần phải ghi những điều này” Hermione nói, giọng đầy căm phẫn.

Nhưng Harry vẫn cười tươi với cô bé.

‘Nó thật rực rỡ. Mình vui mừng khi họ làm thế. Mình…”

Nó dừng lại. Một hình thù nặng nề đang khập khiễng bước trên con hẻm, tiến về phía bọn nó, cái bóng in nghiêng được tạo bởi ánh đèn sáng từ quảng trường xa xôi. Harry nghĩ, nhưng cũng thật khó khi suy đoán rằng, đó là dáng của một người phụ nữ. Bà ta đang di chuyển từ từ, có thể là do sợ bị trượt trên nền tuyết. Gù, chắc mập, dáng đi chậm chạp gợi nên một ấn tượng về tuổi tác cao của bà. Chúng quan sát trong im lặng khi bà lê đến gần. Harry vẫn chờ đợi để xem bà sẽ rẽ vào một ngôi nhà nào đó mà bà sẽ đi ngang hay không, nhưng theo bản năng, nó biết, bà ta sẽ không làm thế. Cuối cùng, bà ta chỉ còn cách bọn chúng gần nửa yard (1 yard=0,914 mét) và bà ta chỉ đơn giản đứng đó, ở giữa con đường tuyết, đối mặt với chúng nó.

Nó không cần Hermione véo vào tay nó. Gần như không có khả năng bà ta là một Muggle: bà ta đang đứng đây, nhìn chằm chằm vào cái ngôi nhà, mà đáng lẽ là hoàn toàn vô hình với bà ta, nếu bà ta không phải là một phù thuỷ. Thậm chí, cứ cho rằng bà ta là một phù thuỷ đi nữa, thì đây vẫn là một hành động kỳ quặc, khi ra ngoài vào một cái đêm lạnh giá thế này chỉ để ngắm nhìn một đống đổ nát. Theo nguyên tắc bình thường của phép thuật, bà ta không có khả năng nhìn thấy Hermione và nó. Tuy nhiên, Harry vẫn cảm giác kỳ lạ là bà ta biết chúng nó ở đó, và còn biết chúng nó là ai. Chỉ ngay khi nó đã đạt được cái kết luận khó chịu này, bà ta đã giơ một bàn tay đeo găng lên và ra hiệu.

Hermione di chuyển đến gần hơn bên Harry dưới tấm áo, cánh tay ép chặt nó.

“Làm thế nào bà ta biết được?”

Nó lắc đầu. Người đàn bà đó ra dấu lần nữa, mạnh mẽ hơn. Harry có thể nghĩ ra nhiều lý do để không nghe theo dấu hiệu gọi đến ấy, và hơn nữa, sự hoài nghi của nó về việc bà ta nhận thấy bọn nó trở nên lớn mạnh hơn bao giờ hết, kể từ khi chúng đứng đối mặt với bà trên con đường hoang vắng này.

Phải chăng là bà ta đã chờ đợi chúng suốt mấy tháng ròng? Phải chăng cụ Dumbledore đã bảo bà ta chờ, và Harry cuối cùng cũng phải đến? Không phải bà ta chính là cái bóng đã di chuyển theo chúng nó từ nghĩa địa và đến tận đây chứ? Thậm chí khả năng cảm thấy bọn nó của bà ta cũng đã khiến nó đoán ra sức mạnh nào đó của cụ Dumdledore mà nó chưa bao giờ nhìn thấy trước đó.

Cuối cùng, Harry nói, làm cho Hermione há hốc miệng vì kinh ngạc và nhảy dựng lên.

“Bà có phải là Bathilda không?”

Cái hình thù khập khiễng đó gật đầu và ra dấu lần nữa.

Bên dưới tấm áo khoác, bọn nó có thể nhìn thấy nhau. Harry nhướn lông mày lên; còn Hermione thì đưa ra một cái gật đầu nhẹ, đầy lo lắng.

Bọn nó bước về phía bà ta và, cùng một lúc, bà ta quay lại và khập khiễng đi ngược lại con đường mà bọn nó vừa đi. Dẫn bọn nó băng qua vài căn nhà, bà ta quẹo vào một cánh cổng. Bọn nó theo bà đến trước lối đi băng ngang qua một khu vườn mà cỏ mọc cao gần bằng khu vườn bọn nó vừa rời khỏi. Bà ta dò dẫm trong giây lát với chiếc chìa khoá trước cánh cổng, rồi mở ra và bước lùi lại để bọn nó vào.

Bà ta có mùi thật khó chịu, hoặc là do căn nhà của bà ta; Harry phải nhăn mũi khi bọn nó đi ngang qua bà ta và cởi Áo choàng ra. Giờ đây, nó đang ở ngay bên cạnh bà ta, nó nhận thấy bà ta nhỏ như thế nào; lưng còng xuống vì tuổi tác, bà chỉ cao đến ngực của nó. Bà ta đóng cánh cửa phía sau chúng lại, những đốt ngón tay xanh và lốm đốm của bà ta thật tương phản với lớp sơn, rồi bà ta quay lại, cái nhìn của bà cứ dán chặt vào mặt Harry. Đôi mắt của bà ta dầy và đục, đã vậy nó còn bị chìm sâu vào bên trong những nếp nhăn, toàn bộ gương mặt của bà ta đầy những dấu vết của các tĩnh mạch bị vỡ và dấu hiệu của bệnh gan. Nó ngạc nhiên liệu bà ta có nhìn thấy nó không; còn nếu bà ta có thể, thì người bà ta thấy hẳn là gã Muggles đầu hói mà nó đã bắt chước dung mạo.

Mùi của người già, của bụi, của quần áo bẩn và thức ăn cũ càng tăng thêm khi bà sổ cái khăn choàng đầu đen bị mọt ăn ra, để lộ cái đầu chỉ còn vài sợi tóc bạc mọc trên cái lớp da rõ lồ lộ.

“Bà Bathilda?” Harry lặp lại.

Bà ta lại gật đầu. Harry nhận thức được rằng cái mặt dây chuyền đang đập vào lớp da của nó; cái thứ bên trong đó thỉnh thoảng kêu tích tắc hoặc đập thình thịch đã thức dây; nó có thể cảm nhận nhịp điệu đó qua lớp vàng lạnh. Liệu cái thứ đó có biết không nhỉ, nó có cảm nhận được gì không, rằng thứ sẽ huỷ diệt nó đang đến gần?

Bà Bathilda lê chân qua chỗ bọn chúng, vượt qua Hermione như thể bà ta không thấy cô bé, và biến mất vào trong một nơi trông giống như phòng khách.

“Harry, mình không chắc về điều này đâu!” Hermione thì thào.

“Nhìn xem bà ta to cỡ nào, mình nghĩ chúng ta có thể chế ngự bà ta khi cần,” Harry nói.

“Nghe này, mình phải nói với cậu, mình biết, đầu óc của bà ta không sáng suốt đâu. Dì Muriel gọi bà ấy là ‘lẩm cẩm’”.

“Vào đây!” tiếng bà Bathilda vang lên từ căn phòng kế bên. Hermione nhảy dựng lên và nắm chặt lấy tay Harry. “Được rồi,” Harry bình tĩnh nói, và nó đi truớc vào trong phòng khách.

Bà Bathilda đang lảo đảo khắp căn phòng đầy những ngọn nến lập loè, nhưng ở đây vẫn rất tối, chưa muốn nói đến chuyện rất bẩn thỉu. Lớp bụi dày lạo xạo bên dưới chân nó, mũi của Harry bỗng nhận ra, bên dưới sự ẩm lạnh và mốc meo có cái gì đó tồi tệ hơn, giống như mùi thịt đã thối rữa. Nó ngạc nhiên tự hỏi, lần cuối cùng có bất kỳ ai ở trong căn nhà của bà Bathilda kiểm tra xem bà ta ăn ở ra sao là khi nào. Bà ta trông cũng có vẻ như là đã quên mất cách làm phép thuật, bởi bà ta phải thắp nến bằng tay khá vụng về, đã vậy, cái mớ dây ren trên tay áo của bà ta đang có nguy cơ bắt lửa.

“Để cháu làm cho,” Harry đề nghị, và nó lấy mớ diêm từ tay bà. Bà ta đứng nhìn nó đến khi nó thắp xong mẩu nến cụt cuối cùng ở những chiếc đĩa nhỏ quanh phòng, đặt


bấp bênh trên những chồng sách và cái bàn chất đầy những cái tách nứt nẻ.

Chỗ cuối cùng mà Harry dùng để đặt nến là trên mặt trước của cái tủ hình cánh cung, nơi có số lượng lớn những tấm ảnh toạ lạc. Khi ngọn lửa bắt đầu nhảy mùa, ánh hồng của nó cũng reo vui trên những chiếc ly phủ đầy bụi và vật bằng bạc. Nó nhìn thấy chút xíu sự di chuyển trên bức hình. Khi bà Balthida dò dẫm với những thanh củi duy trì ngọn lửa, nó thì thầm “Tergeo!” (tẩy sạch). Lớp bụi tróc ra khỏi những bức hình, và nó thấy cái khung ảnh to nhất, trang trí lộng lẫy nhất bị thiếu mất nửa dưới. Nó ngạc nhiên không biết bà Bathilda hay ai đó đã bỏ phần đó đi. Rồi một bức ảnh gần cuối bộ sưu tập thu hút sự chú ý của nó, và nó nhấc tấm ảnh lên.

Đó là một kẻ có mái tóc vàng, gương mặt trộm cắp vui vẻ, là người đàn ông trẻ đứng cạnh bậu cửa sổ nhà ông Gregorovitch, mỉm cười lờ đờ với Harry, người đang ở ngoài khung tranh bạc. Harry lập tức suy nghĩ xem mình đã gặp gã này ở đâu rồi: trong quyển Cuộc đời và những sự dối trá của Albus Dumbledore, tay trong tay với chàng thiếu niên Dumbledore, và đây chắc hẳn là nơi có những bức ảnh bị thiếu trong quyển sách của mụ Rita.

“Thưa bà…thưa bác…Bagshot?” nó nói, giọng run run. “Ai đây ạ?”

Bà Bathilda đang đứng giữa căn phòng quan sát Hermione thắp ngọn lửa lên cho bà.

“Bác Bagshot?” Harry lặp lại, và nó đưa bức tranh về phía trước đúng lúc ngọn lửa bắt đầu bập bùng trong lò sưởi. Bà Bathilda ngước lên vì giọng nói của nó, và cái Horcrux càng đập mạnh hơn trên ngực nó.

“Người này là ai thế ạ?” Harry hỏi bà, đẩy bức hình về phía trước.

Bà ta nhìn bức hình, nghiêm nghị, rồi ngước lên nhìn Harry.

“Bà có biết đây là ai không ạ?” Nó lập lại, chậm và to hơn hồi nãy.

“Người đàn ông này? Bà có biết không? Ông ta tên gì ạ?”

Bà Bathilda chỉ đơn thuần nhìn mơ hồ. Harry cảm thấy mình đã thất bại thảm hại. Làm thế nào mà mụ Rita Skeeter có thể khám phá ra ký ức của bà Bathilda?

“Người đàn ông này là ai ạ?” Nó lặp lại to hơn.

“Harry, cậu đang làm gì vậy?” Hermione hỏi.

“Bức hình này. Hermione, đó là tên trộm, kẻ đã trộm của ông Gregorovitch! Làm ơn!” Nó nói với bà Bathilda. “Đây là ai ạ?”

Nhưng bà ta chỉ nhìn nó chòng chọc.

“Tại sao bà lại gọi bọn cháu đến đây với bà, bà…ơ…thưa bác Bagshot?” Hermione cao giọng hỏi. “Phải chăng, có điều gì đó bà cần nói với bọn cháu?”

Không có dấu hiệu gì cho thấy bà ta nghe thấy Hermione nói. Bà Bathilda giờ đây bước tới vài bước để đến gần Harry hơn. Với một ít động tác ở cái đầu, bà ta quay lại nhìn vào trong phòng lớn.

“Bà muốn bọn cháu ra về ư?” Nó hỏi.

Bà ta lặp lại dấu hiệu, lúc đầu chỉ vào nó, rồi vào bà ta, rồi chỉ lên trần nhà.

“Ồ, được rồi…Hermione, mình nghĩ bà ấy muốn mình lên tầng trên cùng.”

“Được thôi,” Hermione nói, “Đi thôi.” Nhưng khi Hermione di chuyển, bà Bathilda lắc mạnh đầu một cách bất ngờ, một lần nữa chỉ vào Harry, rồi vào bà ta.

“Bà ta muốn mình đi với bà ấy, một mình.”

“Tại sao?” Hermione hỏi, giọng cô bé đanh lại và rõ ràng vang khắp căn phòng đầy nến, và bà già lắc đầu nhẹ nhàng trước âm thanh ồn ào ấy.

“Có thể cụ Dumbledore nói với bà ấy đưa cho mình thanh gươm, chỉ đưa cho mình?”

“Cậu có chắc bà ta biết cậu là ai không?”

“Có,” Harry nói, trông ánh mắt thật yếu ớt. “Mình nghĩ bà ta biết”.

“Thôi, được rồi, nhanh thôi nhé, Harry.”

“Dẫn đường đi, thưa bà,” Harry nói với bà Bathilda.

Bà ta trông có vẻ đã hiểu, bởi vì bà đã bước vòng qua nó tiến về phía cánh cửa. Harry thoáng liếc về phía Hermione với một nụ cười tự tin, nhưng bản thân nó thì lại không chắc chắn cho lắm là cô bé có thấy không; cô bé đang đứng đó, ghì chặt bản thân mình lại, ở giữa căn phòng đầy nến bẩn thỉu, nhìn thẳng về hướng cái kệ sách. Khi Harry rời khỏi căn phòng thì nó không thấy cả Hermione và bà Bathilda đâu, nó cất nhanh khung hình bạc chứa bức ảnh về tên trộm bí ẩn vào trong áo khoác.

Cầu thang thì dốc và hẹp; Harry nửa muốn đặt tay mình lên cái bàn toạ phốp pháp của bà Bathilda để đảm bảo rằng bà ta không thể ngã đè lên nó, điều duy nhất có khả năng xảy ra. Chậm chạp, hơi thở khò khè, bà ta leo lên phía trên, rồi ngay lập tức quẹo sang bên phải và dẫn nó vào trong một căn phòng ngủ trần thấp.

Đó là một căn phòng có màu đen hắc ín và mùi kinh khủng; Harry chỉ mới lỡ lôi cái chậu đựng nước tiểu từ bên dưới cái giường lên, trước khi bà Bathilda đóng cửa lại và tất cả chìm trong bóng tối.

“Lumos,” (thắp sáng), Harry nói và cây đũa phép của nó toả sáng. Nó giật mình: Bà Bathilda đã di chuyển tới gần nó hơn trong vài giây tăm tối, và nó không hề nghe tiếng di chuyển của bà ta.

“Mi là Potter?” Bà ta hỏi.

“Phải, là cháu.”

Bà ta từ từ gật đầu, khoan thai. Harry cảm thấy cái Horcrux đập nhanh hơn, nhanh hơn cả trái tim của nó. Điều này không dễ chịu chút nào, nó có cảm giác bối rối.

“Bà có đưa cho cháu cái gì không?” nó lặp lại. Rồi bà ta nhắm mắt, và mọi thứ xảy ra cùng một lúc: vết thẹo của Harry đau đớn như bị kim châm, cái Horcrux co giật mạnh đến mức phần trước cái áo khoác của nó chuyển động; bóng tối; mùi hôi thối lan ra khắp phòng ngay lập tức. Nó cảm thấy một sự sung sướng trong giọng nói cao và lạnh: Cầm chân nó!

Harry đứng lắc lư tại chỗ: căn phòng tối hôi hám dường như bủa vây lấy nó; nó không biết chuyện gì đã xảy ra.

“Bà có cái gì đưa cho cháu không?” nó hỏi lần thứ ba, to hơn.

“Ở đây này,” bà ta thì thầm, chỉ vào một góc. Harry giơ cao đũa phép lên và nhìn thấy hình dáng của một cái bàn quần áo lộn xộn bên dưới cái cửa treo rèm.

Lần này, bà ta không dẫn đường cho nó. Harry lách giữa bà ta và cái giường bề bộn, đũa phép giơ cao. Nó không muốn rời mắt khỏi bà ta.

“Cái gì thế?” nó hỏi khi nó đến được cái bàn quần áo, nơi mà chất đầy một thứ trông và có mùi giống mớ quần áo bẩn.

“Đây này,” Bà ta nói, chỉ vào mớ bùng nhùng không có hình dạng gì cả.

Và ngay lập tức nó quay đi, mắt của nó bắt được một mớ hỗn độn những chuôi gươm, hồng ngọc, bà ta di chuyển thật kỳ lạ: Nó nhìn thấy qua khoé mắt, sự hoảng sợ làm nó quay đi và sự rùng rợn làm toàn thân nó tê liệt khi nó nhìn thấy một cơ thể già nua sụp xuống và một con rắn vĩ đại đổ ra từ cái nơi đã từng là cổ của bà. Con rắn phóng tới khi nó giơ cao đũa phép: sức mạnh của cú đớp đến cánh tay của nó làm cho cây đũa phép xoay vòng, tung lên trần nhà; ánh sáng của nó đu đưa xoay tít đến hoa mắt quanh phòng và tắt phụt; rồi một sức mạnh từ cái đuôi đánh thẳng vào cơ hoành của nó làm hơi thở của nó thoát mạnh ra ngoài: Nó rơi về phía sau, rớt thẳng ngay vào mớ quần áo bẩn…

Nó lăn qua một bên, né được cú đập từ cái đuôi con rắn, trong đường tơ kẽ tóc, xuống chỗ mà nó vừa nằm cách đó một giây.

Những mảnh vụn của bề mặt kính rơi như mưa xuống sàn nhà. Từ bên dưới Harry nghe Hermione gọi, “Harry?”

Nó không có đủ không khí trong buồng phổi để đáp trả: Rồi một khối gì đó mềm mịn quật nó xuống sàn nhà và nó cảm thấy thứ đó trườn lên người, mạnh mẽ, cơ bắp -

“Không!” nó thở hổn hển, bám chặt xuống sàn nhà.

“Có,” một giọng thì thào. “Có đấy…giữ chặt ngươi…giữ chặt ngươi…”

“Accio…Accio Đũa phép…” (triệu tập đũa phép).

Nhưng không có gì xảy ra cả và nó cần bàn tay của mình để kéo con rắn ra khi phần thân trên của nó bị quấn chặt, không khí như bị nén lại xung quanh, ép cái Horcrux vào ngực nó, sự lạnh lẽo bao trùm khắp nó, từng phân một trên trái tim cuồng loạn của nó, và bộ não của nó bị nhấn chìm trong sự lạnh lẽo, ánh sáng trắng, mọi suy nghĩ bị xoá sạch, hơi thơ của nó yếu dần, tiếng bước chân, mọi thứ cứ trôi qua…

Một trái tim kim loại đang đập mạnh bên ngoài ngực của nó, giờ đây nó đang bay lên, bay với sự chiến thắng trong tim, bay mà không cần chổi thần hay Tử mã…

Nó bất ngờ thức dậy trong bóng tối nồng mùi chua; Nagini đã thả nó ra. Nó ngồi dậy và nhìn thấy bóng con rắn nổi bật trên nền đất sáng: Nó đứng dậy, và Hermione né qua một bên với tiếng thét; lời nguyền chệch hướng của cô bé đánh trúng cửa sổ treo rèm, làm nó vỡ tan tành. Không khí lạnh tràn ngập khắp gian phòng khi Harry cúi xuống để né một trận mưa mảnh kính vỡ khác và chân của nó trượt trên cây bút chì – giống như – đũa phép của nó. Nó cúi xuống và nhặt đũa phép của nó lên, nhưng giờ đây, căn phòng như toàn rắn, đuôi của nó quật đập dữ dội; Hermione giờ không thấy đâu, trong giây lát, Harry nghĩ đến điều tệ hại nhất, nhưng sau đó, một tiếng nổ lớn và một tia sáng đỏ phóng ra, con rắn bị quăng vào không khí, quật mạnh vào mặt Harry, con rắn cuộn lại khi nó vươn lên cao. Harry giơ cao đũa phép, nhưng khi nó làm điều đó, vết sẹo của nó nóng như bị đốt, đau đớn hơn bất kỳ lúc nào trong năm.

“Hắn đang đến! Hermione, hắn đang đến!”

Ngay khi nó hét lên, con rắn rơi xuống, rít lên một cách hoang dại. Mọi thứ trở nên hỗn độn: Nó đập vỡ những cái kệ bên tường, và những mảnh gốm sứ vỡ tan văng đi khắp nơi khi Harry nhảy qua giường và tóm lấy một hình thù tối đen mà nó biết là Hermione.

Cô bé thét lên đau đớn khi nó đẩy lưng cô bé ngang qua cái giường: con rắn ngẩng đầu lên lần nữa, nhưng Harry biết điều tệ hại hơn việc con rắn đến, có lẽ là ở lối ra, đầu của nó như nứt ra vì vết sẹo đau đớn…

Con rắn tấn công bất ngờ khi nó đang thực hiện một bước chạy dài, kéo theo Hermione, và ngay khi nó tấn công, Hermione gào lên, “Confringo!” (Nổ tung) và câu thần chú của cô bé bay khắp căn phòng, làm nổ tung gương của tủ quần áo và bật lại về phía chúng, nảy tưng lên từ sàn nhà lên trần nhà; Harry cảm thấy sức nóng của câu thần chú làm khô mu bàn tay của mình lại. Kính vỡ cũng làm xước má của nó, đẩy Hermione đi cùng với mình, nó nhảy từ cái giường sang cái bàn quần áo đã gãy rồi vọt thằng ra ngoài qua cái cửa sổ đã vỡ, nhảy vào chốn hư vô, tiếng hét của cô bé vang vọng xuyên qua màn đêm khi bọn chúng siết chặt lấy nhau giữa không khí…

Và rồi, vết sẹo của nó lại đau đớn như nổ tung ra và nó chính là Voldemort. Hắn đang chạy băng qua cái giường hôi thối, bàn tay dài trắng bệt của hắn chộp lấy bậu cửa sổ khi hắn liếc nhìn qua một gã hói và một cô gái nhỏ đang siết lấy nhau, biến mất, và hắn rống lên đầy tức giận, tiếng rống lẫn với tiếng hét của cô gái, vang vọng xuyên qua khu vườn tăm tối, át cả tiếng chuông nhà thờ rung lên trong ngày Giáng Sinh…

Và tiếng hét của hắn là tiếng hét của Harry, vết thương của hắn là vết thương của Harry…điều đó có lẽ đã xảy ra ở đây, nơi mà điều đó cũng đã từng xảy ra…tại đây, trong khuôn viên của căn nhà này, nơi nó đã đến quá gần để biết được chết là thế nào…chết…vết thương thật tệ hại…rách ra từ cơ thể của nó…Nhưng nếu nó không có cơ thể, tại sao cái đầu của nó lại đau đớn kinh khủng như vậy; nếu như nó đã chết, làm thế nào nó có thể cảm thấy lạnh đến không chịu được, chẳng phải vết thương sẽ hết đau khi cái chết đến, sẽ không tiếp tục…

Đó là một đêm lạnh giá và lộng gió, hai đứa trẻ ăn mặc như những trái bí đỏ đi lạch bạch ngang quảng trường và những cửa sổ của các cửa hàng phủ đầy những con nhện giấy, tất cả là những cái bẫy hào nhoáng của dân Muggle trong một cái thế giới mà chúng không tin tưởng…Và hắn đang lướt qua,cái cảm giác về những mục đích, sức mạnh, và những điều đúng trong hắn luôn luôn được biết đến trong những dịp này…không tức giận…chỉ có những kẻ yếu ớt hơn hắn…nhưng vui mừng, phải…hắn đang chờ đợi điều đó, hắn đã hy vọng về điều đó…

“Trang phục dễ thương quá, thưa ông!”

Hắn nhìn thấy thấp thoáng một nụ cười từ thằng bé khi nó chạy đến đủ gần để nhìn thấy phía bên dưới cái mũ trùm đầu của chiếc áo choàng, nhìn thấy sự sợ hãi bao trùm gương mặt đau đớn của thằng bé: rồi thằng bé quẹo đi và bỏ chạy…Bên dưới tấm áo choàng, ngón tay của hắn đang cầm chặt lấy cây đũa phép…chỉ một động tác đơn giản là thằng bé đó sẽ không bao giờ gặp lại được mẹ của mình…nhưng điều đó không cần thiết, chỉ hơi không cần thiết…

Và hắn đi dọc theo con đường mới và tối hơn,giờ đây, cuối cùng, đích đến của hắn đã ở trong tầm nhìn, Bùa Trung Tín đã bị phá vỡ, mặc dù họ chưa biết điều đó…Và hắn đã tạo ra ít tiếng động hơn cả những chiếc lá cây khô rụng trên vỉa hèkhi hắn đạp lên một cái bờ giậu đen thui, và vượt qua nó…

Họ đã không kéo màn; hắn ta nhìn thấy khá rõ họ đang ở trong căn phòng khách nhỏ bé, người đàn ông cao với mái tóc đen và cặp mắt kính, đang tạo ra những lọn khói màu từ đũa phép của ông để bày trò vui cho một đứa trẻ tóc đen trong bộ đồ ngủ xanh dương. Đứa trẻ cười to và tìm cách bắt lấy những lọn khói, túm lấy nó trong nắm tay nhỏ xíu…

Cánh cửa mở ra và người mẹ bước vào, nói những từ mà hắn ta không thể nghe ra, mái tóc dài đỏ sậm của bà che phủ một phần gương mặt. Bây giờ, người cha đã nâng đứa con trai lên và trao cho người mẹ. Ông đặt đũa phép xuống ghế sofa và nằm duỗi ra, ngáp…

Cánh cổng hơi cọt kẹt khi hắn đẩy cửa vào, nhưng James Potter không nghe thấy. Bàn tay trắng bệch của hắn rút chiếc đũa phép ra từ bên dưới tấm áo chùng và chĩa vào cánh cửa, nó bung ra…

Hắn đã bước qua ngưỡng cửa khi James đang chạy vào trong. Thật dễ dàng, quá dễ dàng, khi ông ta thậm chí đã không mang theo đũa phép của mình…

“Lily, đem Harry đi đi! Đó là hắn! Đi! Chạy đi! Anh sẽ cầm chân hắn lại!”

Cầm chân hắn lại, khi không có đũa phép trong tay!…Hắn đã cười lớn trước khi thực hiện lời nguyền…

“Avada Kedavra!”

Ánh sáng xanh bao phủ khắp hành lang hẹp,làm cho bóng của chiếc xe đẩy em bé rõ mồn một trên tường, làm cho tay vịn lan can trông như một cái que phát sáng, và James Potter ngã xuống như một con rối mà sợi dây đã bị cắt…

Hắn có thể nghe thấy tiếng hét của cô ấy từ lầu trên, bị mắc kẹt, nhưng chừng nào cô ấy còn sống, cô ấy, ít nhất, cũng không có gì để sợ…Hắn bước từng bước một lên gác, lắng nghe sự yếu ớt, vui vẻ trước mọi nỗ lực tạo ra chướng ngại vật để bảo vệ mình…Cô ấy cũng không có đũa phép bên cạnh…

Họ thật ngu ngốc làm sao, cả tin làm sao, khi nghĩ rằng sự an nguy của mình nằm trong tay bạn mình là an toàn, đến nỗi, nhiều khi cả vũ khí của mình cũng vứt bỏ…

Hắn tông cửa vào, đẩy qua một bên những thứ bàn ghế, hộp được chất đầy một cách vội vàng hòng chặn hắn lại với một cái vẫy đũa phép uể oải…và cô ấy ở đây, với đứa trẻ trên tay mình. Ngay khi nhìn thấy hắn, cô ấy đã cho đứa bé vào trong một cái nôi ở sau lưng mình, giang rộng tay ra, như thể điều đó có thể giúp được gì, để tạo ra sự cản trở trong tầm nhìn của hắn, cô ấy hy vọng một sự lựa chọn khác thay thế…

“Không phải Harry, không phải Harry, không phải Harry làm ơn!”

“Đứng qua một bên, con bé ngốc nghếch kia…tránh ra, ngay bây giờ.”

“Không phải Harry, làm ơn, đừng, giết tôi đi, hãy giết tôi thay vì…”

“Đây là cảnh báo cuối cùng của ta…”

“Không phải Harry! Làm ơn…xin rủ lòng thương…xin Ngài thương tình…Không phải Harry! Không phải Harry! Làm ơn…tôi sẽ làm bất cứ điều gì…”

“Tránh ra. Tránh ra. Con bé kia!”

Hắn có thể bắt cô ấy tránh xa cái nôi, nhưng hắn có vẻ thận trọng hơn để kết liễu tất cả bọn họ…

Tia sàng xanh loé lên khắp căn phòng và cô ấy ngã xuống hệt như chồng mình. Đứa trẻ đã không khóc từ nãy giờ. Nó có thể đứng dậy, nắm lấy cái thanh chắn của cái nôi đang nhốt mình, và nhìn vào gương mặt của một người lạ mới vào với một chút thích thú, có thể nó cho rằng đó là cha của mình, người đang trốn dưới tấm áo chùng, làm ra thêm nhiều thứ ánh sáng xinh xắn hơn, và mẹ của mình sẽ xuất hiện bất ngờ, và cười lớn…

Hắn nhắm cây đũa phép của mình cẩn thận vào gương mặt nó: Hắn muốn nhìn thấy điều gì sẽ xảy ra, thấy sự huỷ diệt thằng bé, một mối nguy hiểm không thể lý giải được. Đứa trẻ bắt đầu khóc: nó thấy hắn không phải là James. Hắn không thích cái tiếng khóc này, hắn chưa bao giờ quân tâm đến những linh hồn nhỏ bé đang khóc lóc trong trại mồ côi…

“Avada Kedavra!”

Và rồi, hắn tiêu tan. Hắn không còn là gì nữa, không còn là gì trừ sự đau đớn và nỗi kinh hoàng, và hắn lẫn trốn, không phải ở đây, nơi chỉ còn là đống gạch vụn của căn nhà, nơi mà tiếng thét của đứa trẻ vang dội khắp, nhưng ở một nơi rất xa…thật là xa…

“Không,” Hắn rên rỉ.

Con rắn rít lên phía trên đống bẩn thỉu, sàn nhà bừa bộn, hắn đã giết chết thằng bé, và hắn chính là thằng bé…

“Không…”

Và bây giờ hắn đang đứng trên cái cửa sổ bể nát ở căn nhà của bà Bathilda, chìm đắm trong những kí ức về sự thất bại lớn của hắn, và dưới chân hắn, con rắn khổng lồ trượt qua đống gốm sứ và thuỷ tinh…Hắn nhìn xuống và nhìn thấy một thứ gì đó…một thứ gì đó không thể tin được…

“Không…”

“Harry, mọi sự đều ổn, cậu vẫn ổn!”

Hắn cúi xuống và nhặt tấm ảnh nát lên. Đây rồi, tên trộm bí ẩn, tên trộm mà hắn đang tìm kiếm…

“Không…mình đánh rơi nó rồi…mình làm rớt nó rồi…”

“Harry, vẫn ổn mà, tỉnh lại đi, tỉnh lại!”

Nó là Harry…Harry, không phải Voldemort…và cái thứ đang rít lên không phải con rắn…Nó mở mắt ra.

“Harrry,” Hermione thì thào. “’cậu thấy ổn cả chứ?”

“Ừ,” nó nói dối.

Nó đang nằm trong một cái lều, nằm dài trên một cái giường thấp bên dưới đống chăn. Nó có thể nói rằng đó là một buổi bình minh lạnh lẽo và yên tĩnh, ánh sáng trải dài bên ngoài nóc lều bạt. Người nó ướt đẫm mồ hôi, nó có thể cảm thấy điều đó qua tấm khăn trải giường và chiếc chăn.

“Chúng ta phải đi thôi.”

“Ừ,” Hermione nói. Mình đã phải dùng Bùa Bay để đặt cậu vào trong giường. Mình không thể nhấc nổi cậu lên. Cậu…ờ, cậu đã hơi không…”

Một vài vệt tím xuất hiện dưới mắt cô bé và nó để ý thấy một miếng xốp nhỉ trong tay cô bé: Cô bé đã lau mặt cho nó.

“Cậu đang ốm đấy,” Cô bé kết thúc. “Hơi ốm.”

“Chúng ta đã khời khỏi đó bao lâu rồi?”

“Nhiều giờ trước. Lúc đó trời gần sáng.”

“Và lúc đó mình đã…ờ, bất tỉnh?”

“Không hẳn vậy,” Hermione nói có vẻ không thoải mái lắm.”Cậu đã la hét và rên rỉ và…vài điều,” cô bé thêm vào bằng một giọng làm Harry chẳng cảm thấy dễ chịu chút nào. Nó đã làm gì? Thét ra lời nguyền như Voldemort, hay khóc như một đứa trẻ ở trong cũi.

“Mình đã không thể lấy cái Horcrux ra khỏi cậu,” Hermione nói, và nó biết rằng cô bé đang muốn đổi đề tài. “Nó đã bị kẹt, kẹt vào ngực của cậu. Cậu đã bị một vết lằn; mình xin lỗi, mình đã phải dùng tới Bùa Cắt rời để lấy nó ra. Con rắn cũng tấn công cậu, nhưng mình đã lau sạch vết thương và đặt một ít cây bạch tiễn lên đó…”

Nó cởi cái áo thun ướt đẫm ra và nhìn xuống. Có một cái hình bầu dục đỏ tươi ở trên trái tim của nó, nơi mà cái mặt dây chuyền đã thiêu đốt da thịt nó. Nó cũng có thể nhìn thấy một nửa vết rạch đã lành trên cẳng tay của mình.

“Cậu đặt cái Horcrux ở đâu rồi?”

“Trong túi của mình. Mình nghĩ, chúng ta nên đặt nó xa ra trong một thời gian.”

Nó ngả lưng trên cái gối và nhìn gương mặt tái xám của cô bạn.

“Chúng ta không nên tới thung lũng Godric. Đó là lỗi của mình, tất cả là lỗi của mình. Hermione, mình thật sự xin lỗi.”

“Đó không phải là lỗi của cậu. Mình cũng muốn đi; mình thật sự nghĩ rằng cụ Dumbledore để lại thanh gươm ở đó cho cậu.”

“Ừ, phải…chúng ta đều mắc sai lầm, phải không?”

“Chuyện gì đã xảy ra, Harry? Điều gì đã xảy ra khi bà ta đem cậu lên lầu? Phải chăng con rắn đã trốn ở đâu đó? Và sau đó nó chỉ cần phóng ra, giết chết bà ta và tấn công cậu?”

“Không.” Nó nói. “Bà ta là con rắn…hoặc con rắn là bà ta…ngay từ đầu.”

“C-cái gì?”

Nó nhắm mắt lại. Nó vẫn còn ngửi thấy cái mùi của căn nhà bà Bathilda trên mình; điều đó tạo ra một điều gì đó kinh khủng thật sống động.

“Bà Bathilda đã chết từ trước. Con rắn nó đã…ở bên trong bà. Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy đặt nó ở đó, để chờ. Cậu đã đúng. Hắn biết mình sẽ trở lại.”

“Con rắn bên trong bà ấy?”

Nó mở mắt ra lần nữa. Hermione nhìn một cách ghê tởm, đến buồn nôn.

“Thấy Lupin đã nói ở đó có những thứ phép thuật mà chúng ta không bao giờ tưởng tượng được.” Harry nói. “Bà ta không muốn nói trước mặt cậu bởi vì đó là Xà-ngữ, tất cả là Xà-ngữ, và mình không nhận ra điều ấy, nhưng dĩ nhiên là mình hiểu được bà ta. Khi chúng ta ở trong căn phòng, con rắn gửi thông điệp đến Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy, mình nghe thấy điều đó xảy ra ở trong đầu mình, mình cảm thấy hắn rất phấn khích, hắn nói là phải giữ mình lại…và rồi…”

Nó nhớ lại con rắn đã đi ra ngoài từ cái cổ của bà


Bathilda: Hermione không cần phải nghe chi tiết này.

“…bà ta biến đổi, biến thành rắn, và tấn công.”

Nó nhìn xuống vết thương.

“Nó đã không định giết chết mình, chỉ giữ mình lại cho đến khi Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy đến.”

Nếu như nó có thể giết chết con rắn, đáng để làm như thế mà, tất cả…Đau đớn, nó ngồi dậy và ném những thứ trên người ra.

“Harry, đừng, mình chắc rằng cậu phải nghỉ ngơi!”

“Cậu mới là người cần phải ngủ. Đừng bực mình, nhưng cậu trông thật tệ hại. Mình khoẻ. Mình sẽ trông chừng cho. Đũa phép của mình đâu rồi?”

Cô bé không trả lời, cô bé chỉ nhìn nó.

“Đũa phép của mình đâu rồi, Hermione?”

Cô bé cắn môi, và ngân ngấn nước mắt.

“Harry…”

“Đũa phép của mình đâu?”

Cô bé đến gần và ngồi xuống cạnh cái giường và đưa ra cho nó.

Cây đũa phép làm từ cây nhựa ruồi và lông phượng hoàng đã gần như gãy làm đôi. Một sợi tơ mỏng manh của lông con phượng hoàng giữ cho hai mảnh của cây đũa phép dính lại với nhau. Mãnh gỗ đã hoàn toàn gãy lìa. Harry cầm nó trong tay như thể đó là một vật thể sống đang phải chịu đựng một vết thương khủng khiếp.

Nó không thể nghĩ ra điều gì đúng đắn nữa: Mọi thứ đã mờ đi với nỗi kinh hoàng và sợ hãi. Nó bất giác trao cây đũa phép cho Hermione.

“Sửa chữa nó đi, làm ơn.”

“Harry, mình không nghĩ là, khi nó gãy thế này…”

“Làm ơn, Hermione, thử đi!”

“R-Reparo.” (Sửa chữa)

Một nửa lủng lẳng của cây đũa phép dính liền với phần còn lại. Harry nhấc nó lên.

“Lumos!” (toả sáng)

Cây đũa phát ra tia lửa yếu ớt, rồi phụt tắt.

Harry chĩa vào Hermione.

“Expelliarmus!” (Bùa Giải Giới)

Cây đũa của Hermione giật nhẹ, nhưng không rời khỏi bàn tay của cô bé. Sự nỗ lực yếu ớt trong việc làm phép thuật của cây đũa phép của Harry là quá nhiều, nó tách ra làm đôi lần nữa. Nó nhìn chằm chằm vào cây đũa, kinh hãi, không thể chấp nhận điều nó đang thấy, cây đũa đã phải chịu đựng quá nhiều…

“Harry.” Hermione thi thầm nhẹ đến mức nó khó có thể nghe được. “Mình thật sự xin lỗi. Mình nghĩ đó là lỗi của mình. Khi chúng ta bỏ đi, cậu biết đấy con rắn đã đuổi theo, cho nên, mình đã thực hiện Lời nguyền Nổ Tung, và nó bật đi khắp nơi, và nó cũng đã…đã đánh trúng…”

“Đó là một tai nạn.” Harry nói một cách máy móc. Nó cảm thấy trống rỗng, sững sờ. “Thôi được…chúng ta sẽ tìm cách sửa lại nó.”

“Harry, mình không nghĩ là chúng ta có thể làm được đâu,” Hermione nói, nước mắt ràn rụa khắp gương mặt. “Nhớ không…Ron đấy? Khi cậu ấy làm đũa phép gãy, trong vụ tai nạn xe hơi? Nó không bao giờ như xưa được nữa, cậu ấy đã phải mua cây mới.”

Harry nghĩ đến cụ Ollivander, bị Voldemort bắt cóc và giữ làm con tin; nghĩ về Gregorovitch, người đã chết. Làm thế nào để nó có thể tìm thấy một cây đũa phép mới?

“Ờ,” nó nói, bằng cái giọng thật sự giả dối, “ờ, mình sẽ mượn cái của cậu trước đã. Mình sẽ cẩn thận.”

Gương mặt cô bé mờ đi với nước mắt, Hermione trao cây đũa phép của mình, và nó rời khỏi, để lại cô bé ngồi trên giường của mình, không mong muốn gì hơn là tránh xa cô bé.

******** Hết ********


Trang [1]
Wapviet9x.us | Thế Giới Game miễn phí trên di động của bạn

XtGem Forum catalog